Lãi suất đã đi đến bước ngoặt?
Nhiều ngân hàng trung ương lớn đã quyết định giữ nguyên lãi suất, nhưng rất ít quan chức dám đưa ra tuyên bố chiến thắng lạm phát.
Bà Christine Lagarde, ông Jerome Powell và Andrew Bailey nằm trong số các thống đốc ngân hàng trung ương đang theo dõi các chỉ số chính sau khi ngừng nâng lãi suất (Ảnh: Bloomberg)
Các thống đốc ngân hàng trung ương trong cuộc gặp ở Athens hồi tuần trước đã nhất trí ngừng tăng lãi suất lần đầu tiên sau 15 tháng. Cuộc họp này được cho là đã diễn ra một cách đồng thuận. Ngay cả những thành viên "diều hâu" nhất trong hội đồng quản trị Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cũng nhất trí về quyết định từ bỏ một đợt nâng lãi suất, sau khi lạm phát ở khu vực đồng tiền chung giảm mạnh.
“Đó là cuộc thảo luận 'yên tĩnh' nhất mà chúng tôi có được trong nhiều tháng. Rõ ràng là chúng tôi đã thắt chặt chính sách tiền tệ đủ mức”, Yannis Stournaras, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Hy Lạp, người chủ trì cuộc họp tuần trước, cho hay.
ECB không đơn độc trong việc lựa chọn quyết định ngừng nâng lãi suất. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương Canada và Ngân hàng Trung ương Anh đều giữ nguyên lãi suất trong những ngày gần đây, cùng với các ngân hàng trung ương ở các quốc gia khác, từ Cộng hòa Séc cho đến New Zealand. Các ngân hàng trung ương ở một số thị trường mới nổi bao gồm Brazil và Ba Lan đang thực hiện những đợt cắt giảm.
Việc dừng chu kỳ tăng lãi suất đã làm dấy lên sự lạc quan trong giới đầu tư thị trường trái phiếu rằng các nền kinh tế hàng đầu sắp kiểm soát được lạm phát gia tăng, sau khi tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm hơn một nửa so với mức đỉnh ở các nền kinh tế bao gồm Mỹ và khu vực đồng euro. Jari Stehn, Kinh tế trưởng châu Âu của Goldman Sachs, cho biết “ngày càng có nhiều quan điểm cho rằng vấn đề lạm phát hiện đã được kiểm soát - và tôi cũng cho rằng như vậy”.
Tuy nhiên, không khí đáng mừng đó đi ngược lại tín hiệu mà các thống đốc ngân hàng trung ương phát ra. Trong những ngày gần đây, Chủ tịch ECB Christine Lagarde, Jerome Powell của Fed và Andrew Bailey của Ngân hàng Anh (BoE) đều tiếp tục khẳng định việc tăng thêm lãi suất vẫn được cân nhắc mặc dù có dấu hiệu cho thấy lạm phát giá tiêu dùng đang giảm xuống.
Điều này phản ánh sự không chắc chắn thực sự về việc dữ liệu gần đây có thực sự đánh dấu bước ngoặt hay không, đặc biệt là khi các ngân hàng trung ương từng dự báo sai trong quá khứ và lo ngại rằng môi trường địa chính trị đầy biến động có thể gây ra những cú sốc giá mới.
Joseph Gagnon, cựu nhân viên cấp cao của Fed và hiện đang làm việc tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, cho biết các ngân hàng trung ương hiện đang ở “điểm uốn” và đây là điểm tối thiểu - chứ không phải tối đa - về niềm tin vào triển vọng.
“Khi bạn biết mình đang ở phía sau đường cong và tốt hơn hết là nên tăng lãi suất thật nhanh để bắt kịp, bạn sẽ rất tự tin rằng mình đang làm điều đúng đắn”, ông nói. “Nhưng khi bạn tiến đến vị trí mà bạn nghĩ mình có thể đã làm đủ, đó là lúc bạn không còn chắc chắn về bước đi tiếp theo. Đó là vị trí hiện tại của họ”.
Chủ tịch Fed Jerome Powell thông báo về quyết định ngừng nâng lãi suất trong cuộc họp mới nhất (Ảnh: Bloomberg)
Nước đi an toàn
Sự thận trọng của các ngân hàng trung ương là có thể hiểu được, sau khi họ đã mắc sai lầm nặng nề về lạm phát 2 năm trước. Sự phục hồi nhanh chóng của chi tiêu tiêu dùng sau lệnh phong tỏa COVID-19, cùng với những tác động kéo dài của tình trạng thiếu hụt chuỗi cung ứng, gói kích thích tài chính khổng lồ của Mỹ và cú sốc giá năng lượng xuất phát từ cuộc chiến Ukraine, tất cả đã góp phần gây ra đợt bùng phát lạm phát tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ ở các nền kinh tế lớn.
Đó là một đợt bùng phát mà các ngân hàng trung ương đã nhận ra chậm trễ cho đến khi phát hiện rằng nó có nguy cơ làm mất đi kỳ vọng lạm phát ở mục tiêu 2% mà họ đưa ra.
Các nhà hoạch định chính sách tại Fed, ECB, BoE và các ngân hàng trung ương khác đã thực hiện một loạt đợt tăng lãi suất điên cuồng bắt đầu từ khoảng 2 năm trước, khiến chi phí đi vay ở châu Âu và Mỹ ở mức cao nhất kể từ trước cuộc khủng hoảng tài chính.
Ở Mỹ, đợt tăng lãi suất tàn khốc đó đã giúp kiềm chế lạm phát CPI xuống 3,7%, thấp hơn nhiều so với mức đỉnh gần 10%. Tuy nhiên, Fed vẫn đang phải đối mặt với một nền kinh tế phát triển đáng ngạc nhiên với mức tăng trưởng hàng năm là 4,9% trong quý gần đây nhất.
Mặc dù giá cả tăng cao và dự trữ tiết kiệm bị thu hẹp, chi tiêu của người tiêu dùng vẫn chưa chậm lại đáng kể. Điều đó phần lớn là do thị trường lao động mạnh mẽ, mặc dù báo cáo việc làm tháng 10 yếu hơn dự kiến, cho thấy sẽ có một số điều tiết.
Hoạt động chi tiêu tiêu dùng ở Mỹ vẫn khỏe mạnh (Ảnh: CNBC)
Phát biểu tại cuộc họp báo tuần này sau quyết định của Fed ngừng nâng lãi suất trong cuộc họp thứ hai liên tiếp, ông Powell khẳng định rằng họ không loại trừ khả năng tiếp tục thắt chặt tiền tệ. “Vào thời điểm này, chúng tôi không tự tin rằng chúng tôi đã đạt được quan điểm như vậy,” ông nói khi trả lời câu hỏi liệu lãi suất hiện nay có đủ mức hạn chế hay không.
Tuy nhiên, ông Powell cũng không thông báo cho thị trường về bất kỳ đợt nâng lãi suất nào sắp xảy ra, khiến các nhà đầu tư đưa ra kết luận của riêng mình, khi họ chuyển sang suy đoán về việc cắt giảm lãi suất có thể diễn ra khi nào.
Ông Powell nhấn mạnh rằng Fed thậm chí còn không quan tâm đến việc khi nào nên cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên, việc lãi suất dài hạn tăng trong những tuần gần đây, do các yếu tố như lo ngại về khoản vay khổng lồ của chính phủ, đã giúp thắt chặt đáng kể các điều kiện tài chính, củng cố quan điểm rằng Fed có thể giữ nguyên lãi suất trong thời điểm hiện tại.
Chủ tịch Fed thừa nhận rằng điều này có thể làm giảm khả năng ngân hàng trung ương phải thực hiện các biện pháp bổ sung để hạn chế nhu cầu kinh tế, mặc dù phần lớn sẽ phụ thuộc vào mức độ diễn biến của thị trường.
Bị chỉ trích vì phản ứng quá chậm, ECB - giống như Fed – cũng chưa thể tuyên bố chiến thắng lạm phát. Frederik Ducrozet, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu kinh tế vĩ mô tại Pictet Wealth Management, cho biết: “Điều cuối cùng mà ECB muốn làm là phạm sai lầm tương tự khi đánh giá thấp lạm phát lần thứ hai trong 2 năm”.
Thành viên hội đồng ECB, Isabel Schnabel, đã cảnh báo trong một bài phát biểu hôm thứ Năm rằng “đoạn cuối cùng” của quá trình giảm lạm phát “sẽ bất trắc hơn, chậm hơn và gập ghềnh hơn” và có nguy cơ bị mất ổn định bởi “những cú sốc từ phía cung” như xung đột Israel-Hamas. Bà nói: “Chúng tôi không thể loại trừ khả năng tăng thêm lãi suất”.
Anh giữ lãi suất ở mức 5,25%, cảnh báo rằng áp lực trả lương vẫn dai dẳng hơn so với dự kiến và tỷ lệ thất nghiệp có thể phải tăng cao hơn (Ảnh: CNBC)
Nền kinh tế tăng trưởng chậm lại
Tuy nhiên, các thị trường hiện không tập trung vào việc liệu các ngân hàng trung ương có nâng lãi suất hay không, mà thay vào đó là đợt cắt giảm đầu tiên của ECB sẽ diễn ra khi nào. Các nhà kinh tế học kỳ vọng rằng các ngân hàng trung ương sẽ chờ đợi bằng chứng rõ ràng rằng lạm phát đã được kiềm chế trước khi cắt giảm lãi suất.
Nếu lạm phát chung của khu vực đồng euro duy trì ở mức dưới 3%, ông Stournaras cho rằng việc cắt giảm lãi suất có thể diễn ra “vào giữa năm tới”.
Đối với Ngân hàng Anh, tình thế tiến thoái lưỡng nan phía trước còn khó khăn hơn. Ngân hàng này đã hạ mức dự báo về cả sản lượng và nguồn cung của Vương quốc Anh trong dự báo tháng 11, khi giữ lãi suất ở mức 5,25%, cảnh báo rằng áp lực trả lương vẫn dai dẳng hơn so với dự kiến và tỷ lệ thất nghiệp có thể phải tăng cao hơn.
Triển vọng của nước này rất ảm đạm, báo hiệu đà tăng trưởng đi ngang, cùng với lạm phát trên mục tiêu cho đến cuối năm 2025. Ông Bailey cho biết ủy ban lãi suất của ông có quyền nâng lãi suất một lần nữa nếu cần, nhưng nhiều nhà đầu tư nhận thấy khả năng tăng thêm rất khó xảy ra do tình hình kinh tế yếu kém cùng với những dấu hiệu của một thị trường lao động nguội lạnh.
Tiffany Wilding, giám đốc điều hành tại Pimco, nói rằng trong khi xu hướng lạm phát toàn phần ở châu Âu chậm hơn Mỹ một hoặc hai phần tư, thì các nền kinh tế hiện đang đi đúng hướng ở cả hai bờ Đại Tây Dương.
Nhưng bà nói thêm rằng, điều này không nhất thiết là họ hoàn toàn không hành động nữa, một phần vì lý do chính khiến lạm phát giảm là “các tác động liên quan đến đại dịch đang giảm dần”.
“Điều mà các ngân hàng trung ương vẫn còn lo lắng một chút là một khi chúng ta thấy những biến đổi về lạm phát liên quan đến đại dịch này giảm dần, thì xu hướng lạm phát cơ bản sẽ đi theo xu hướng nào?” bà nói. “Để thực sự giảm lạm phát, thị trường lao động sẽ phải hứng chịu tác động như thế nào?”.
Với môi trường địa chính trị đầy biến động có nguy cơ gây ra những cú sốc nguồn cung mới và viễn cảnh chuỗi cung ứng bị phân mảnh trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng, những tuyên bố rằng lạm phát đã được kiềm chế chỉ là ảo tưởng.
“Tôi không nghĩ rằng bất kỳ ai trong số họ sẵn sàng treo biểu ngữ có nội dung ‘nhiệm vụ đã hoàn thành’”, Seth Carpenter, người trước đây từng làm việc tại Bộ Tài chính và Fed, hiện đang làm tại Morgan Stanley, cho biết. “Tôi nghĩ rằng hai năm rưỡi qua đã cho thấy việc dự báo có thể khó khăn như thế nào”./.