Làm gì để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt?
LTS: Chúng ta nói quá nhiều về 'Giữ gìn sự trong sáng cho tiếng Việt' trong nhiều thập niên qua nhưng chúng ta đã làm được những gì để bảo vệ tiếng mẹ đẻ, nhất là trong làn sóng 'công dân toàn cầu' đầy cám dỗ như hôm nay?
Bịt tai học ngôn ngữ
Vào năm 1885, tại một khu người Do Thái ở Jerusalem, cặp vợ chồng trẻ Eliezer và Devora Ben-Yehuda, rất lo lắng cho đứa con của họ: họ đang nuôi dạy con bằng tiếng Hebrew, một ý tưởng chưa từng có.

Họ đã thuê một bà đỡ đồng ý hát ru bằng tiếng Hebrew, và thống nhất rằng trong gia đình, tất cả các ngôn ngữ khác đều phải im lặng, cho đến khi đứa trẻ học được thành thạo tiếng Hebrew. Người chồng thậm chí còn giận dữ với vợ nếu cô nhỡ miệng hát ru con bằng tiếng Nga.
Tuy nhiên, khi Itamar lên ba tuổi, cậu vẫn chưa nói được một từ nào. Bạn bè của đôi vợ chồng phản đối kịch liệt: họ chắc chắn rằng thí nghiệm với một thứ ngôn ngữ đã lỗi thời như vậy sẽ tạo ra một đứa trẻ kém thông minh.
Các chi tiết này được kể lại trong bộ phim tài liệu của BBC vào năm 1989, kể về hành trình hồi sinh tiếng Hebrew. Khi Eliezer Ben-Yehuda, người chồng, quyết định sẽ dạy con bằng ngôn ngữ này, tiếng Hebrew đã không được sử dụng trong hơn 2.000 năm.
Năm 1948, nó trở thành ngôn ngữ chính thức của quốc gia Israel, chấm dứt thân phận lưu vong và làm rõ hình hài một dân tộc. Sinh nhật của Eliezer được người Israel coi là Ngày ngôn ngữ Do Thái để tưởng nhớ di sản của ông.
Khi biết đến câu chuyện này, cảm giác ban đầu của tôi là… ngạc nhiên, không chỉ vì sự hồi sinh của một dân tộc đã đến từ nỗ lực ban đầu của một người. Đơn giản là với đầu óc của một công dân hiện đại, đã bị nhồi nhét quá nhiều ý tưởng về toàn cầu hóa, rất khó tưởng tượng chuyện một học giả lại hành động cực đoan đến vậy để bảo tồn thứ ngôn ngữ thất truyền hàng ngàn năm. Nó cũng giống việc bây giờ tự dưng có một thầy giáo chỉ dạy con bằng chữ Nôm và cấm tiệt các ngôn ngữ khác trong gia đình vậy.
Nhưng các dân tộc có ngôn ngữ mạnh (và trùng hợp là kinh tế và vị thế mạnh) dường như cũng có sẵn sự cực đoan này. Khi học tiếng Nhật, tôi mới biết rằng người Nhật có hẳn một bảng chữ cái riêng (gọi là chữ cứng) để ký âm các từ mượn. Ví dụ với từ Việt Nam, họ không dùng luôn Viet Nam mà phiên âm thành Betonamu. Tương tự, người Trung Quốc sẽ gọi là Nã Phá Luân, chứ không sử dụng luôn Napoleon.
Bạn tôi ở Đức kể rằng 90% các phim ra rạp ở quốc gia này sẽ được… lồng tiếng Đức, thay vì chỉ chạy phụ đề, dù chi phí lồng tiếng cao gấp phụ đề 10-15 lần. Không ai hiểu lý do của sự cồng kềnh này. “Chỉ là thói quen thưởng thức của người Đức là như vậy”, cô bạn kể. Ngành lồng tiếng phim ở Đức rất phát triển, thậm chí được coi như một nghệ thuật riêng biệt. Dù 56% người Đức thành thạo tiếng Anh, họ cũng không lạm dụng các biển chỉ dẫn tiếng Anh, mà chủ yếu dùng tiếng Đức.
Năm 1924, học giả Phạm Quỳnh đã nói một câu bất hủ: “Tiếng ta còn, nước ta còn”. Vốn là một trí thức tiếp xúc với văn hóa phương Tây rất sớm, nhưng chính ông lại cho rằng thói quen nói tiếng Pháp của giới Tây học thời đó là không tốt cho tiếng Việt: “Tiến hóa không phải là đi từ chỗ không mà bước lên được. Ở chỗ gốc phải có cái gì đã. Cái gì đó là gồm cả cuộc ký vãng của dân tộc. Hiện tại và tương lai của dân tộc thế nào cũng là tùy thuộc ở đó”.
Phàn nàn về chuyện dùng từ ngữ lai căng vào thời buổi này rất dễ bị quy kết là bảo thủ, lạc hậu, thậm chí mông muội. Nhưng hãy thử xem chúng ta có gì để dễ dãi với ngôn từ: Một nghiên cứu quan trọng của nhà ngôn ngữ học Cao Tự Thanh (Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam) phân tích rằng việc phế bỏ Hán học từ đầu thế kỷ 20 đã làm mai một hơn 60% vốn từ vựng tiếng Việt có gốc Hán-Việt, dẫn đến sự nghèo nàn hóa ngôn ngữ và giảm năng lực diễn đạt khái niệm trừu tượng.
Theo ông, trước năm 1920, học sinh tiếp xúc với 5.000-10.000 từ Hán-Việt qua giáo dục; nay chỉ còn dưới 1.000 từ trong chương trình quốc ngữ, khiến vốn từ vựng trung bình của học sinh giảm từ 8.000 từ (thời Hán học) xuống còn 4.500 từ (dựa trên khảo sát Viện Ngôn ngữ học Việt Nam năm 2010). Nghiên cứu của ông tại Viện Văn hóa năm 2012 cho thấy người không học Hán học có năng lực diễn đạt trừu tượng thấp hơn 35%, và 55% học sinh THPT không dùng từ Hán-Việt đúng ngữ cảnh (khảo sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2018).
Việc thắc mắc là tại sao không dùng “hòa nhạc” thay vì “concert” hóa ra còn không cực đoan bằng cách Ben-Yehuda dạy con học tiếng Hebrew: ông bịt tai con trai khi nghe thấy tiếng… chó sủa hoặc bò rống, để đảm bảo cậu chỉ nghe được tiếng Hebrew thuần túy.
Tôi cũng thích đóng vai một người cấp tiến, cổ vũ việc dùng nguyên si các từ nước ngoài, hay dạy lịch sử bằng… tiếng Anh, vì dễ được đồng thuận hơn. Nhưng bảo tồn ngôn ngữ dường như là một việc mà chỉ có sự kiên định đến cực đoan là phù hợp: bạn phải cảnh giác với mọi nguy cơ làm cho nó mai một, méo mó, theo thời gian thực, từng phút từng giây, trong khi xung quanh bạn, rất ít người coi đó là việc quan trọng.
Bịt tai con trai mình như Ben-Yehuda, nghe có vẻ điên rồ và tất nhiên là khó khăn, nhưng có thể là một lựa chọn sống còn mà phải nhiều năm sau, ta mới hiểu được hết giá trị của nó.
Phạm An
Tiếng Việt của “à” và “ờ”
“Công tác đổi mới phương pháp ờ giảng dạy ờ tiếng Việt ừm đặc biệt là tại các nhóm dân tộc. Thiểu số và, ít người. Đã phát, huy hiệu quả rõ rệt trong thời gian qua”. Bạn có tưởng tượng được một đoạn hội thoại như vậy không? Khá dễ, nếu bạn là người Việt Nam.

Lễ khai giảng một trường đại học trọng điểm quốc gia, đứng trên bục là một phó giáo sư, tiến sĩ ngành kỹ thuật đã tu nghiệp tại nước ngoài. Thật khó để nghi ngờ trình độ chuyên môn hay các đóng góp của người đang phát biểu, nếu nhìn vào sự nghiệp công tác của ông. Chỉ có một vấn đề quen thuộc: bài phát biểu rất chán.
Tôi xin được trích dẫn bài phát biểu này. Và sự “chán” của nó, không chỉ đến bởi từ vựng, ngữ pháp hay ý của văn bản. Nó đến từ ngữ điệu và nhịp điệu của người nói – hay chính xác hơn là người đọc. Để mô tả một phần điều này, phải chèn vào các khoảng nghỉ, vốn là một cấu phần quan trọng của mọi ngôn ngữ. Để công bằng, tôi chỉ mô tả các khoảng nghỉ dài một giây bằng các cụm ký tự [/], vì nếu tính thêm cả “à, ờ” thì không xuể.
“… Trường đang tổ chức giảng dạy một trăm mười chín chương trình [/] đại học [/] [/] và [/] năm mươi hai ngành cao học hai mươi mốt ngành nghiên cứu sinh [/] với tổng số người học hiện nay [/]”.
“…năm học vừa qua trường cũng mở năm ngành bậc đại học đặc biệt [/] là một số ngành [/] tiên phong [/] ở những cái ngành công nghiệp lõi ví dụ như ngành thiết kế vi mạch và bán dẫn [/] bảy ngành [/] sau đại học [/] tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm [/] là [/] đạt [/]”.
Độc giả hãy đọc nhẩm các đoạn trên và dừng lại một giây ở các chỗ ngắt. Bạn sẽ hiểu điều tôi đang muốn nói. Và thực ra không cần đến một ví dụ. Phàm là người Việt Nam, rất có thể bạn đã được trải nghiệm một sự kiện nơi người đứng trên bục đọc ấp úng một văn bản như thế này rồi.
Trong một bài viết mang tên “Dạy – Học tiếng Việt trong nhà trường theo hướng phát triển năng lực”, được đăng trên website của Đại học Sư phạm Hà Nội, PGS.TS Đỗ Việt Hùng - Phó khoa Ngữ văn, liệt kê ra đến 31 loại năng lực tiếng Việt. Bốn nhóm chính, gồm Nói, Nghe, Đọc, Viết, được bổ ra thành 31 loại nhỏ hơn. Nói thì bao gồm năng lực phát âm đúng; năng lực bộc lộ tình cảm thích hợp; năng lực thuyết phục… Đọc thì bao gồm năng lực đọc diễn cảm, đúng ngữ điệu; năng lực đọc nhanh; năng lực đọc hiểu, cảm nhận; năng lực đọc để thu thập thông tin… Viết thì bao gồm năng lực viết đúng chính tả; năng lực trích dẫn; năng lực viết các loại văn bản khác nhau từ thông cáo đến văn bản nghệ thuật…
Là một người đã hướng dẫn hơn một thế hệ phóng viên tốt nghiệp nhiều trường đại học lớn và trưởng thành trong môi trường xuất bản, người viết bài này có thể khẳng định rằng hệ thống giáo dục hiện nay không thể cung cấp đủ 31 loại năng lực mà PGS Hùng nêu ra.
Đơn cử, năng lực đọc diễn cảm và năng lực trình bày, báo cáo sẽ xuất hiện ở cấp nào trong hệ thống giáo dục? Có thể ai đó sẽ cho rằng việc này đang dần xuất hiện trong cấp trung học phổ thông và đại học, khi các em được khuyến khích tự báo cáo các đề tài nghiên cứu của mình. Nhưng thực chất, “diễn cảm” không hề nằm trong bộ tiêu chí mà thầy cô buộc phải xem xét khi chấm điểm các bài thuyết trình này.
Lý do: chính thầy cô và những lãnh đạo ngành giáo dục cũng không hề coi trọng kỹ năng đó. Hãy thử tìm trên YouTube vài bài phát biểu nhân các lễ khai giảng, xem các em phải chịu đựng những cuộc “đọc diễn cảm” ở cấp độ nào dưới cái nắng tháng 9.
Năng lực sử dụng ngôn ngữ, trước khi bàn đến những ứng dụng tót vời như sử dụng cho nghiên cứu, lập luận hay triết thuyết, có một công năng cơ bản: bày tỏ đúng suy nghĩ của mình cho người tiếp nhận. Và suy nghĩ đó, không chỉ bao gồm thông tin thuần túy, mà còn có tình cảm, thái độ. Một người Việt Nam có thể không biết làm thơ lục bát, không biết viết xã luận, nhưng họ phải biết động viên, biết phê bình, biết kêu gọi, biết thăm hỏi, biết nài nỉ… bằng giọng nói của mình. Đó là điều kiện tiên quyết cho một đời sống xã hội lành mạnh của mỗi cá nhân, và cũng là thứ hình thành nên sức khỏe cộng đồng.
Một cộng đồng, trong các cuộc giao tiếp quan trọng nhất của họ, còn tự triệt tiêu cảm xúc, tự biến nhau thành những cái máy đọc lỗi (vì hầu hết đeo kính lão), chúng ta hy vọng gì ở năng lực bày tỏ suy nghĩ và tình cảm?
Trước khi bàn đến các lý thuyết giáo dục và đổi mới chương trình giáo dục tiếng Việt trong nhà trường, thứ đầu tiên cần xem lại là cách tiếng Việt đang được dùng trong xã hội. Khi khắp nơi, trong phòng hội nghị, trên báo và trên đài là những câu nói, câu đọc không cảm xúc, không nhằm mục tiêu truyền đạt hiệu quả thông tin, tư tưởng mà chỉ để xong việc, chúng ta rất khó bàn về “sự trong sáng của tiếng Việt”. Tình trạng gần như đang thành một sự giả dối: người ta đang nói mà không hề có ý định thực hiện công năng tối thiểu của việc nói, vì người nghe cũng không hề có ý định thực sự nghe.
Giáo dục, có thể bắt đầu từ việc thay đổi cách người lớn đang sống.
Đức Hoàng
Và đã có những thế hệ bước vào đời
Gần 30 năm trước, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ra đời và dấu ấn của nghị quyết đó vẫn còn nguyên vẹn tới ngày hôm nay. Lấy nghị quyết này làm trọng tâm, đã có không ít lần các học giả, những nhà ngôn ngữ học đã lên tiếng về hiện trạng sử dụng tiếng Việt, về thói sử dụng tiếng Anh tràn lan trong các đối thoại, trao đổi giữa người Việt với nhau…

Nhưng tất cả những ý kiến như vậy đều chìm vào lãng quên, nhanh như cách người ta quên một vụ lùm xùm trên mạng xã hội đúng kiểu xu thời. Thậm chí, không ít học giả uy tín còn phải ngậm đắng nuốt cay trước những chỉ trích của một đám đông nhân danh “hiện đại”.
Kể từ những ngày tháng đó tới nay, đã có vài thế hệ bước vào đời, trưởng thành và điều đáng ngại là họ trưởng thành trong một bối cảnh những gì đẹp nhất của tiếng Việt đang dần mai một đi mà đa phần không cảm thấy lo lắng hay mất mát.
Kể từ khi thực dân Pháp nhòm ngó và sau đó là nổ súng để bắt đầu một giai đoạn thuộc địa hóa Việt Nam, người Việt đã mất đi rất nhiều. Những hy sinh ấy là để giành lại quyền tự chủ, độc lập và tự do cho cả dân tộc. Nhưng có một thứ đã mất đi ngay từ ban đầu và có thể nói là đã để lại nuối tiếc rất lớn cho giới học thuật. Đó chính là chữ Nôm.
Không ai có thể phủ nhận sự tiện lợi của chữ quốc ngữ so với chữ Nôm. Nhưng điều đáng buồn là Việt Nam không phải dân tộc duy nhất áp dụng bảng chữ cái Latin để phiên âm ngôn ngữ song lại là dân tộc hiếm hoi dùng bảng chữ cái Latin để khai tử luôn chữ Nôm nguồn cội. Chữ Nôm khó nhớ, khó học, khó phổ cập hơn so với chữ quốc ngữ nhưng hệ thống chữ biểu thị âm vị của chữ quốc ngữ lại không đạt được đẳng cấp của hệ thống chữ biểu ý của chữ Nôm.
Học chữ quốc ngữ chỉ là học các mã hóa ngôn ngữ bằng ký tự. Còn học chữ Nôm là học và khám phá, tư duy cả một vũ trụ quan phía sau từng con chữ. Mất chữ Nôm trong cuộc sống đời thường là điều đáng tiếc nhất và khó có thể lật ngược lại thời gian để làm lại điều thần kỳ. Nhưng khi đã mất chữ Nôm rồi mà ngay cả sự trong sáng còn lại của tiếng Việt cũng mai một nốt thì quả là mối nguy rất lớn đối với dân tộc.
Trong một thế giới đa chiều, nhiều quan điểm và đầy xung đột như hiện nay, chủ trương quay trở về với “chủ nghĩa bản sắc” đang được rất nhiều quốc gia cân nhắc kỹ lưỡng. Toàn cầu hóa là để tạo cơ hội sống tốt hơn cho con người chứ không phải để biến các cá thể của một dân tộc nào đó trở thành một con người không có cái đặc sắc đơn riêng và tan lẫn vào trong số đông một cách nhạt nhòa. Trong những thứ tạo nên cái bản sắc đơn riêng đó, ngôn ngữ là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để bảo tồn, để phát huy và để tạo ra điểm nhấn khác biệt.
Hãy thử mở Đài truyền hình xem trọn một buổi tối, chúng ta sẽ gặp nhiều ví dụ về một thứ tiếng Việt vô hồn và cả những ví dụ về sự xâm lấn của thứ tiếng Anh xa lạ. Ví dụ, một thông điệp của một quảng cáo lại sử dụng từ “bật vibe” chẳng hạn. “Bật vibe” là bật cái gì? Cách sử dụng ngôn ngữ đó có tôn trọng công chúng và tôn trọng tiếng mẹ đẻ hay không? Hay cái gọi là “thời thượng” đã biến cả những thứ kệch cỡm nhất trở thành tiêu chuẩn của hiện đại? Và điều đáng buồn là gần như không một ai kiểm soát đầu ra của thứ ngôn ngữ lai căng như thế. Thậm chí, qua các kênh truyền tải chính thống, còn có người xem đó như là dấu hiệu của cách tân, tiến bộ và gần với giới trẻ.
Không biết là chúng ta có cảm nhận thế nào khi ngày càng gặp nhiều đứa trẻ thành thị, thuộc các gia đình tầng lớp trung lưu, đối thoại với nhau rất lưu loát bằng tiếng Anh nhưng lại nói tiếng Việt lơ lớ.
Tôi có một người bạn, cả hai người con của bạn ấy đều học trường quốc tế thuộc diện cao cấp nhất hiện nay, với học phí lên tới cả tỷ đồng/ năm. Nhưng khi nhận tin nhắn từ con mình, người bạn tôi kiên quyết không trả lời. Lý do rất đơn giản, bạn yêu cầu các con “đến khi nào con nhắn tin tiếng Việt đầy đủ dấu chấm, dấu phẩy đúng ngữ pháp thì mới nhận được câu trả lời của cha mẹ”. Chính sự khắt khe ấy của bạn đã tạo ra hai đứa trẻ thành thạo tiếng Anh ở trường nhưng rất lưu loát tiếng mẹ đẻ ở nhà. Và hai đứa trẻ ấy thực chất đang là của hiếm ở các trường quốc tế hiện nay.
Thế hệ 7x, 8x trở về trước, ngoại ngữ là một “vũ khí” cực quan trọng để họ “hành quân” vào “chiến trường mưu sinh”. Ngoại ngữ của thế hệ này không giỏi như các thế hệ sau, đặc biệt là ở khoản nói. Song, thế hệ ấy lại là thế hệ sâu sắc hơn các thế hệ sau rất nhiều bởi họ tiếp xúc với ngoại ngữ khi mà kỹ năng tiếng mẹ đẻ của họ đã gần ở vào ngưỡng hoàn thiện. Trong khi đó, các thế hệ về sau này càng ngày càng yếu kém (về mặt bằng chung) trong cách sử dụng tiếng mẹ đẻ. Đáng buồn là cái yếu kém đi đó đang được cổ xúy mạnh mẽ bởi niềm hãnh diện rất ảo: “Con, cháu tôi rất giỏi tiếng Anh”.
Để nghiên cứu thế giới, để làm ăn toàn cầu, chúng ta luôn cần ngoại ngữ và biết thêm một ngoại ngữ là hiểu thêm một nền văn hóa bởi đơn giản, ngôn ngữ biểu hiện hình thức tư duy của dân tộc. Nhưng khi đời sống ngày càng hiện đại hơn, tiện lợi hơn, với sự phục vụ tận răng của công nghệ, vai trò của ngoại ngữ đã không còn quá thiết yếu nữa. Việc học ngoại ngữ ở thời đại này cần học sâu, như một chuyên gia ngôn ngữ học, hơn là học chỉ để giao tiếp thông thường. Và một người Việt sẽ không thể nào nói tiếng Anh giỏi như một người Anh hay Mỹ bản xứ được.
Vậy thì khi cần làm việc ở một thị trường tới 100 triệu người Việt, đối tác Anh hoặc Mỹ sẽ cần một người thông thạo tiếng Việt hơn hay là người thông thạo tiếng Anh hơn? Câu hỏi này không quá khó để chúng ta tự trả lời.
Chính xác là đã 27 năm kể từ khi Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII ra đời và kể từ đó tới nay, đã có mấy thế hệ bước vào cuộc đời với đầy đủ mọi năng lực ở nhiều khía cạnh nhưng đang mất dần đi sự tinh tế, nhạy bén trong việc sử dụng tiếng mẹ đẻ. Đây là một thực trạng cực kỳ đáng lo ngại và nếu không có những hành động kịp thời, hiệu quả, rất có thể những cảnh báo hôm qua, hôm nay sẽ trở thành sự thật của một ngày mai không xa.