Làm gì để nông dân hưởng lợi 'tỷ đô' từ xuất khẩu rau quả?
Hàng tỷ USD từ xuất khẩu rau quả sẽ được mang về một cách thực chất cho nông dân hưởng lợi nếu như họ có tính đồng thuận trong hợp tác, đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, canh tác rải vụ, liên kết chuỗi chặt chẽ nhằm đáp ứng chất lượng và sản lượng. Và nhất là hiểu được xu thế thị trường, trồng những cây gì mà thị trường cần để 'được mùa, được giá'.
Ông Nguyễn Phong Phú, Giám đốc Kỹ thuật Công ty Vina T&T Group cho biết, thời gian qua thường xuyên tổ chức các lễ công bố xuất khẩu (XK) trái cây tại một số địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sang các thị trường lớn. Chẳng hạn như lễ công bố XK xoài ở An Giang, XK nhãn ở Cần Thơ hoặc như trong tháng 3/2025 này sẽ tổ chức lễ công bố XK lô hàng xoài từ tỉnh Tiền Giang đi Mỹ.
Đồng thuận trong hợp tác
Từ những lễ công bố XK này, theo ông Phú, bà con nông dân sẽ nhận thức chỉ có trồng và canh tác rau quả một cách chất lượng thì mới XK được vào những thị trường khó tính, có giá trị cao bên cạnh thị trường quen thuộc là Trung Quốc.

Tính đồng thuậntrong hợp tácsẽgiúp nông dân thoát cảnh “được mùa mất giá” và hưởng lợi thực chất từ hàng tỷ USD xuất khẩu rau quả.
Vị giám đốc kỹ thuật của Vina T&T Group cũng chia sẻ, khi làm việc với các hợp tác xã (HTX) ở địa phương, công ty luôn khuyến khích nông dân là thành viên HTX nên canh tác rải vụ. Lúc đó sẽ có nguồn hàng cung cấp đều đặn cho công ty quanh năm (giúp đảm bảo được lượng hàng lớn để XK liên tục cho những đầu mối quốc tế), các thành viên HTX cũng có nguồn thu nhập đều đặn mỗi tháng.
“Để XK hiệu quả đòi hỏi chúng tôi luôn tìm những nguồn trái cây chất lượng, đảm bảo sản lượng quanh năm và định hướng nông dân phải canh tác sạch. Chẳng hạn, công ty bao tiêu quanh năm cho các HTX đối với trái vú sữa, nếu vào thời điểm chính vụ, mức giá thu mua chỉ vào khoảng 30.000 - 40.000 đồng/kg, nhưng một khi nông dân trồng rải vụ hoặc trái vụ, giá thu mua lại lên đến 70.000 - 90.000 đồng/kg”, ông Phú nói.
Ngoài ra, ông Phú nhấn mạnh, nhằm đảm bảo đầu ra cho nông dân rất cần các HTX phải liên kết với nhau để có sản lượng lớn. Phía doanh nghiệp (DN) xuất khẩu trái cây luôn cần một đầu mối từ HTX hoặc một liên hiệp HTX hay một nhóm tổ hợp tác. Từ đầu mối đó khi làm việc với công ty mới có được đơn hàng lớn, còn công ty không thể nào mua hàng một cách đơn lẻ và không đồng nhất từ từng cá nhân của HTX. Vì vậy, các thành viên tổ hợp tác hay HTX phải tập trung vào một đầu mối để làm việc với công ty trong việc đưa nguồn hàng cho XK.
Như vậy có thể thấy tính đồng thuận, hợp tác chặt chẽ giữa nông dân, HTX với DN trong XK rau quả là rất quan trọng. Việc này sẽ giúp các nông dân hưởng lợi tốt hơn thay vì loay hoay về đầu ra hoặc rơi vào điệp khúc “được mùa mất giá” hay “được giá lại mất mùa”. Điều đó rất cần các mô hình tổ chức nông dân như tổ hợp tác, HTX nông nghiệp thực sự hiệu quả hơn, đặc biệt là tăng liên kết giữa các nông dân, HTX với nhau, tháo gỡ khó khăn trong khâu tổ chức sản xuất và áp dụng tiến bộ kỹ thuật.
Hơn nữa, các nông dân cũng cần hiểu được xu thế thị trường, nắm bắt được nhu cầu và triển khai trồng trọt, canh tác với thời gian ngắn hạn hay dài hạn, tính toán được thời điểm thu hồi vốn. Khi canh tác nên theo số đông để có được sản lượng lớn. Lúc đó, các công ty thu mua sẽ nhìn đến. Còn nếu như canh tác nhỏ lẻ sẽ khó có thể liên kết với DN.
Để nông dân, HTX có đầu ra ổn định, giới chuyên gia cho rằng họ nên có một sản lượng ổn định quanh năm. Khi đó, các nhà thu mua sẽ nhìn vào và tìm tới họ. Thông thường, những nhà XK sẽ thu mua trái cây loại 1 với giá cao, còn với các trái cây còn lại thuộc loại 2, loại 3 thì nông dân vẫn có thể cung cấp cho các DN chế biến khác.
Bên cạnh đó, theo ông Nguyễn Văn Mười, Phó tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nông dân nên xác định việc đầu tư canh tác vào thời điểm nào thích hợp để hạn chế được rủi ro về giá cả và đầu ra.
Trồng những gì thị trường cần
Ông Mười nhấn mạnh việc nâng cao tỷ trọng chế biến trong XK rau quả sẽ giúp nông dân hưởng lợi tốt hơn và vừa giúp giải quyết bài toán tiêu thụ nông sản (với áp lực theo mùa vụ và sản lượng lớn). Còn trên thực tế, mức độ sản phẩm chế biến rau quả khi đưa ra thị trường của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, chỉ vào khoảng 20 - 30%. Trong khi đó, nếu tham khảo từ Đài Loan (Trung Quốc) sẽ thấy sản phẩm rau quả sau khi sản xuất chế biến để đưa ra thị trường đã lên tới 80%.
Để tránh điệp khúc “được mùa mất giá”, Phó tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam chỉ rõ ngoài việc phải đẩy mạnh chế biến sâu hơn nữa đòi hỏi bà con nông dân phải lưu ý lúc nào tiêu thụ nhiều hay ít nhằm có biện pháp né vụ.
“Hiện nay có nhiều loại trái cây để nông dân điều chỉnh trái vụ. Hoặc như trái sầu riêng ở vùng ĐBSCL đang làm tốt trái vụ, tuy nhiên các vùng khác cũng không nên chạy theo. Bởi vì vấn đề nào cũng có hai mặt. Trái vụ đòi hỏi đầu tư tốn kém, chi phí cao, nếu giá thị trường biến động sẽ khiến nông dân trở tay không kịp”, ông Mười lưu ý.
Mặt khác, ông Mười có lời khuyên cho nông dân khi trồng loại cây gì thì nên để ý xem loại cây đó có tiềm năng XK hay không. Bởi thực tế có một số loại trái cây mà nông dân canh tác chỉ tiêu thụ được ở trong nước và rất khó để XK.
Dữ liệu cũng cho thấy điều đó khi mà tiêu thụ rau quả dạng tươi ở thị trường nội địa hiện chiếm 80-85% trong tổng sản lượng sản xuất của ngành hàng rau quả Việt. Các loại trái cây tiêu thụ chủ yếu ở nội địa: Cam, quýt, chanh, bưởi, sa pô, mãng cầu, na, chuối, xoài, nhãn, chôm chôm… Hệ thống thu mua, cung ứng hầu hết do các tư thương đảm nhận. Đáng chú ý là lượng lớn trái cây thu hoạch từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Trong thời gian thu hoạch rộ mùa, cung nhiều hơn cầu, dẫn đến giá trái cây giảm mạnh, mang lại nhiều rủi ro cho nông dân.
Từ bất cập ngay trên thị trường nội địa như vậy sẽ có những bài học rút ra cho nông dân khi tham gia vào chuỗi liên kết cho XK rau quả. Họ sẽ cần có những thay đổi về hình thức tổ chức sản xuất để được hưởng lợi “tỷ đô” từ kim ngạch XK rau quả.
Như số liệu XK rau quả hồi năm 2024 cho thấy đã đạt hơn 7,12 tỷ USD và đang quyết tâm để đạt kim ngạch 8 tỷ USD trong năm 2025. Với con số thu về hàng tỷ USD như vậy rất cần cho các nông dân hưởng lợi một cách thực chất. Lẽ đương nhiên, điều quan trọng là người nông dân phải trồng những gì thị trường cần chứ không phải bán những gì mà mình có.