Làn sóng FID cho các dự án khí đốt ngoài khơi châu Á

Tiếp theo phân tích mới nhất của Rystad Energy cho rằng hoạt động khai thác khí đốt ngoài khơi ở Đông Nam Á có thể đạt tiềm năng trị giá 100 tỷ USD, Prateek Pandey, Phó Chủ tịch nghiên cứu thượng nguồn tại Rystad cho biết: 'Chúng tôi nhận thấy tiềm năng của các khoản đầu tư dự án mới và cam kết vốn trong khu vực, đã tăng từ 9,5 tỷ USD trong năm 2022-2023 lên khoảng 30 tỷ USD trong năm 2024-2025. Và xu hướng tăng trưởng này dự kiến sẽ tiếp tục tăng cho đến năm 2028'.

Dự án Tangguh LNG của BP tại tỉnh Tây Papua, Indonesia. Ảnh: BP

Dự án Tangguh LNG của BP tại tỉnh Tây Papua, Indonesia. Ảnh: BP

Ông Prateek Pandey đánh giá, cho rằng những khám phá gần đây và sự tham gia của NOC (các công ty dầu mỏ quốc gia) sẽ đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng này, đặc biệt là các hoạt động phát triển vùng nước sâu, vốn có vai trò then chốt trong việc xác định tiềm năng trị giá 100 tỷ USD này.

Chuyên gia tư vấn Rystad Energy cũng lưu ý rằng điều này thể hiện mức tăng gấp đôi so với các dự án trị giá 45 tỷ USD đã được phê duyệt từ năm 2014 đến năm 2023 và báo hiệu sự bùng nổ ngành công nghiệp khí đốt ngoài khơi của khu vực. Giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng sắp tới được hỗ trợ bởi các dự án nước sâu, những phát hiện ngoài khơi gần đây của Indonesia và Malaysia, cũng như những tiến bộ tích cực về thu hồi và lưu trữ carbon (CCS), điều này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng kế hoạch của khu vực Đông Nam Á trong những năm tới.

Ngành khí đốt của khu vực này dự đoán sẽ tăng trưởng đáng kể, với nguồn khí đốt dự kiến từ FID sẽ tăng lên 58 nghìn tỷ feet khối vào năm 2028, đánh dấu mức tăng gấp 3 lần so với mức quan sát được trong 5 năm qua (2019-2024).

Mức tăng trưởng này phụ thuộc vào việc các nhà điều hành tận dụng hiệu quả các khám phá gần đây và thúc đẩy các kế hoạch bị trì hoãn.

Tuy nhiên, bất chấp bối cảnh đầu tư thuận lợi, các doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với những thách thức kinh tế, đặc biệt là đối với các dự án nước sâu và khí chua. Phân tích của Rystad chỉ ra rằng nhiều dự án yêu cầu giá khí đốt trên mức trung bình là 4 USD/1.000 feet khối (Mcf) để đạt được lợi nhuận, với ngưỡng tối ưu gần 6 USD/Mcf.

Bức tranh kinh tế này đã kích hoạt các cuộc thảo luận về việc sửa đổi chính sách định giá khí đốt trong nước trên toàn khu vực. Giá khí đốt 7,5 USD/Mcf có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế cho 95% các dự án phát triển theo kế hoạch, đặc biệt là các dự án liên quan đến khí tự nhiên hóa lỏng ở Indonesia.

Rystad cho biết: “Các công ty trong chuỗi cung ứng cũng có thể nhận thấy giá trị gia tăng đối với các dự án dựa trên thiết bị nổi và hoạt động khoan nước sâu, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phục hưng khí đốt ngoài khơi trong khu vực”.

“Khi các bên liên quan điều chỉnh các điều kiện thị trường, ngành khí đốt ngoài khơi của khu vực dường như đã sẵn sàng cho sự tăng trưởng đáng kể, được hỗ trợ bởi các khoản đầu tư chiến lược và điều kiện kinh tế đang phát triển”.

Các công ty dầu khí lớn dự kiến sẽ chiếm 25% trong số các khoản đầu tư theo kế hoạch cho đến năm 2028, trong khi NOC sẽ chiếm 31% thị phần. Đáng chú ý, các công ty thượng nguồn của Đông Á đang nổi lên với 15% thị phần và cho thấy tiềm năng tăng trưởng thông qua việc mua bán, sáp nhập cũng như các dự án thăm dò sắp tới.

Rystad nói thêm rằng, vai trò của các công ty lớn có thể tăng thêm 27% sau những nỗ lực mua lại gần đây của TotalEnergies tại Malaysia, nơi công ty đang chi 1,6 tỷ USD để mua lại 100% SapuraOMV Upstream.

Tuy nhiên, bất chấp tương lai đầy hứa hẹn của Đông Nam Á về phát triển khí đốt ngoài khơi, sự chậm trễ dai dẳng của dự án vẫn là mối lo ngại lớn, chuyên gia tư vấn cảnh báo.

“Tuy nhiên, sự xuất hiện của các trung tâm CCS ở Malaysia và Indonesia có thể làm thay đổi cuộc chơi. Rystad cho biết hàm lượng carbon dioxide cao trong các dự án ngoài khơi sắp tới - hơn một nửa có hàm lượng CO2 trên 5% - đòi hỏi CCS phải cấp vốn và tuân thủ quy định”.

Cả hai quốc gia đang đánh giá các hồ chứa đã cạn kiệt tại các mỏ cũ như những nơi lưu trữ CO2 tiềm năng. Nhận thức ngày càng tăng về tiềm năng của các hồ chứa này, kết hợp với nhu cầu cấp thiết về giảm phát thải, đang thúc đẩy đáng kể nhu cầu lưu trữ CO2 và sự gia tăng phát triển khí đốt ngoài khơi dự kiến từ năm 2025.

Indonesia dẫn đầu khu vực về các dự án khí đốt đã được phê duyệt như IDD của Eni, dự án Abadi LNG do Inpex vận hành và chương trình Ubadari CCS, sẽ là một phần của dự án Tangguh LNG của BP.

Rystad nhận xét: “Những sáng kiến này, cùng với những phát hiện gần đây ở các tỉnh Đông Kalimantan và Andaman, dự kiến sẽ chiếm 75% tổng vốn đầu tư khí đốt ngoài khơi của Indonesia cho FID”.

“Sự gia tăng đáng kể này khiến Indonesia trở thành một đối thủ đáng gờm đối với sự thống trị lâu đời của Malaysia, mặc dù Malaysia tiếp tục duy trì mức độ hoạt động mạnh mẽ với các FID gần đây và các nỗ lực thăm dò theo kế hoạch”.

Indonesia dự đoán hoạt động FID sẽ gia tăng bắt đầu từ năm 2025, được hỗ trợ bởi các dự án lớn do các đối thủ nặng ký trong ngành là BP và Eni dẫn đầu.

Trong khi đó, các dự án FID sắp tới của Malaysia sẽ nhấn mạnh những phát hiện quan trọng được thực hiện kể từ năm 2020 bởi Petronas, PTTEP và Shell.

Rysted cho biết thêm, để giải quyết 3 bài toán khó liên quan đến năng lượng - an ninh năng lượng, cân bằng năng lượng và môi trường bền vững - các quốc gia có thể ưu tiên sử dụng nguồn lực trong nước để phát triển khí đốt, đồng thời xây dựng các chính sách khuyến khích thúc đẩy các hoạt động bền vững và tăng cường an ninh năng lượng khu vực.

Anh Thư

AFP

Nguồn PetroTimes: https://nangluongquocte.petrotimes.vn/lan-song-fid-cho-cac-du-an-khi-dot-ngoai-khoi-chau-a-714147.html