Lăng Ông - Trăm năm trầm mặc
Trường tiểu học của tôi nằm ngay bên Lăng Ông Bà Chiểu. Khi còn nhỏ, mỗi lần tan học, chúng tôi thường rủ nhau đứng ngoài hàng rào ngó vào lăng. Cổng Tam Quan cao lớn với những mái ngói đỏ tía trang nghiêm sừng sững luôn in trong ký ức non nớt của tôi.


Lăng Lê Văn Duyệt tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng. Từ xưa, do tục kỵ gọi tên nên người dân thường chỉ gọi tắt là Lăng Ông, song lăng lại nằm kế chợ Bà Chiểu nên chẳng biết tự lúc nào nhắc đến Lăng Ông Bà Chiểu, người ta biết ngay là nói đến Lăng Lê Văn Duyệt. Sinh năm 1763 tại Gia Định, Tả quân Lê Văn Duyệt từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, đức độ. Ông theo phò Vua Nguyễn Ánh, khi làm Tổng trấn Gia Định, có công lớn trong việc khai khẩn đất đai và mở mang thương nghiệp. Để bày tỏ lòng biết ơn, sau khi ông mất, nhân dân Gia Định tự nguyện lập miếu thờ, đời đời khói hương. Lăng Ông từ đó trở thành một phần hồn cốt của mảnh đất phương Nam.
Tôi có thói quen ghé thăm lăng vào những chiều nắng nhẹ, khi cái nóng thành thị đã bớt đi phần gay gắt. Chậm rãi men theo con đường lốm đốm nắng vàng, vòng qua hàng thốt nốt vi vút gió reo, tôi đến trước cổng Tam Quan sừng sững phía Nam, nơi có tấm bảng chữ nổi khắc ba chữ “Thượng Công Miếu” đã rêu phong theo thời gian. Trên nóc nhà bia đã xỉn màu đặt một bộ “Lưỡng long tranh châu” trứ danh. Linh hồn của bức đồ án là trái châu sứ xanh biêng biếc thuộc dòng gốm sứ Cây Mai gần trăm năm tuổi. Bất chấp bao phen bị đánh cắp, quả châu vẫn kỳ diệu trở về đúng chỗ cũ, da xanh nước ngọc vẹn nguyên. Sắc xanh biêng biếc ấy tương phản với mái ngói đỏ tía chồng lên nhau thành từng tầng, gợi nên hình ảnh của những chiếc thuyền rồng chênh vênh trùng điệp.
Bước qua cổng Tam Quan, men theo lối gạch tàu dẫn thẳng đến gian miếu chính. Hương trầm tức khắc quấn quýt quanh chóp mũi, len trong tay áo, mái tóc, như một sợi chỉ bồng bềnh quyện vào không trung. Tiếng gió xào xạc ngoài sân và tiếng chuông đồng ngân khe khẽ hòa thành bản hợp xướng dịu dàng. Chính giữa gian thờ, tượng Tả quân trong bộ võ phục ngồi uy nghi, đôi mắt trầm tĩnh mà từ ái lắng nghe lời nguyện cầu của trăm họ. Hai bên miếu là các án thờ những bậc công thần từng phò tá Ông. Người đến viếng ai cũng chắp tay trước bàn thờ, rồi rút một quẻ xăm từ ống tre cũ kỹ. Những tấm thẻ nhỏ nhắn dặn dò người xin bằng những câu tiên đoán giản dị, sâu xa.
Bước ra khỏi gian chính, nhìn quanh một vòng trước sân lăng, chợt hiểu ra vì sao trong nhịp sống biến động của thành phố, khói nhang vẫn quanh năm nghi ngút trong lăng. Lăng không chỉ thờ cúng một vị anh hùng mà còn là nơi gối đầu cho những số phận bươn chải ngoài kia. Khoảnh sân rợp bóng cây và ghế đá mát rượi vỗ về giấc ngủ những người lao động lam lũ. Những khi việc kinh doanh không thuận lợi, tiểu thương sẽ ghé Lăng Ông, xin cho việc bán buôn khấm khá hơn. Có các ông các bà sáng sớm vào đây tản bộ, tập dưỡng sinh, đến chiều thì trải chiếu ở khoảnh sân ngoài, ngồi chéo chân chuẩn Nam Bộ buôn chuyện thảnh thơi. Người đến viếng lăng đâu chỉ để tưởng nhớ một bậc khai quốc công thần, còn là kiếm tìm cho mình một khắc để thấy lòng thanh thản, an yên.
Bức tường vàng bên hông miếu thường hay vắng vẻ. Không hiểu sao mỗi lần viếng lăng, tôi luôn dành con đường ấy cho những bước chân cuối cùng. Sau khi đã thỏa thuê trầm trồ trước những ngói đình cổ kính, tôi nhẩn nha thả hồn trên cung đường thoáng đãng, bao bọc bởi dãy tường vàng ngọt như khoai mật, điểm xuyết bởi những ô cửa đỏ sắt son uốn nắn hình cỏ hoa. Bóng cỏ cây đung đưa trên tường như phẩy vài nét mực chan hòa lên bức tranh cuộn đã nhuốm màu thời gian, khắc ghi sự hiện diện của nó vào dòng lịch sử.
Lăng Ông từng là biểu tượng kiến trúc bậc nhất Sài Gòn. Ngẫm ra, Lăng Ông mới sửa sang chưa đến ba mươi năm. Lăng chưa già nhưng lại như một vị ẩn sĩ với đôi mắt trầm tĩnh nhìn dòng thời gian vần xoay mà giữ lấy vẻ hoài cổ cho riêng mình. Ngoài kia, giữa những hoạt náo của phiên chợ chiều Bà Chiểu, giữa nườm nượp xe cộ tan tầm nơi nút giao Lê Văn Duyệt – Phan Đăng Lưu, Lăng Ông như thuộc về một thế giới khác, trầm mặc mà nghiêm trang đến lạ.
Có những ngày, giữa xốn xang nhật thường, người ta bỗng muốn dâng một nén hương khấn nguyện, muốn được ngửi thấy mùi nghi ngút khói nhang cho tâm tình thanh tĩnh, muốn dạo một vòng hành lang sâu hun hút, ngắm tường cao sân rộng đặng thả hồn phiêu du như cổ nhân xưa hay chỉ đơn giản như buổi chiều xa xưa ấy, tôi – một đứa trẻ bởi lòng hiếu kỳ thuần túy muốn chiêm ngưỡng chút khí thế lịch sử giữa lòng thành phố, đã bước qua cổng Tam Quan vàng son chói lọi và từ đó, lòng chẳng thể rời xa Lăng Ông.
Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/lang-ong-tram-nam-tram-mac.html










