Về miền Tây săn cá ngát

'Hôm nay cố gắng câu lấy vài ký cá ngát về mần canh chua trái bần. Thứ đó nhậu là bá phát' - anh Hội bảo tôi trong khi sửa soạn đồ câu.

Một dàn đáy trên sông Ba Lai.

Một dàn đáy trên sông Ba Lai.

Anh Hội làm cùng tôi, là nhân viên phát hành một tờ báo đặt văn phòng đại diện tại TPHCM. Lâu lâu anh lại rủ về quê anh chơi. “Lần này về ta đi câu cá ngát sông Ba Lai nghe”, anh nói trước chuyến đi.

Tôi nhớ đã đọc trong truyện "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, có chi tiết thằng Cò bị ngạch cá ngát đâm vào bắp chân, sưng vù, không vào rừng lấy mật ong được nên chuyến ấy chỉ có tía nuôi và thằng An đi. “Cá ngát giống cá trê, nhưng đầu tròn, nhiều râu hơn, đuôi dài nhọn. Đặc biệt là ba cái vây có ngạnh độc, một trên lưng, hai ở bên hông. Cá trê đánh ngạnh thì đau vài giờ, dính ngạnh cá ngát thì đau mấy ngày”, anh Hội bảo tôi. “Nhưng mà cá ngát thịt dai, ngọt, thơm hơn cá trê. Nướng, kho, nấu canh chua, nấu lẩu, gì cũng ngon”.

Anh Hội, 48 tuổi, quê xã Thới Lai, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre (nay là Vĩnh Long). Ở quê anh có con sông Ba Lai, là một nhánh của sông Mekong. Sông chỉ chảy trong địa bàn Bến Tre sau khi tách ra từ Mekong. Khu vực này có 3 con sông là chi lưu của Mekong là Cổ Chiên, Hàm Luông và Ba Lai, chảy song song rồi cùng đổ ra biển Đông. Mấy con sông nhánh này ngày trước nổi tiếng nhiều cá lớn, nhất là sông Cổ Chiên. Các cụ nói ngày trước ngư dân vẫn thường bắt được những con cá hô (cùng họ với cá chép) nặng vài chục đến cả tạ trên dòng sông này.

Nhưng hôm nay chúng tôi chỉ câu ở Ba Lai, con sông nhỏ nhất trong mấy dòng sông kể trên, chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, có độ dài gần 60km. Hôm nay chỉ có anh Hội câu, tôi đi theo “học việc” và ngắm cảnh là chính.

Việc đầu tiên là đi kiếm mồi câu. Cá ngát là loài ăn tạp, nhưng anh Hội nói chúng vẫn có thể thích mồi này hơn mồi kia. “Nhạy nhất là mồi trùn lá, nhiều nơi gọi là hà đỏ” - anh Hội nói. Trùn lá trông giống giun đất nhưng khác ở chỗ chúng sống ở ven biển, nơi có bùn cát. “Muốn kiếm hà đỏ phải ra mấy chỗ có dừa nước ven biển, móc bùn lên. Câu mồi trùn lá rất nhạy nhưng đi bắt thì cực, mà mua ở cửa hàng đồ câu thì rất đắt, có khi 5-700 ngàn một ký” - anh Hội nói.

Thứ mồi anh Hội chọn hôm nay là tôm tươi, tuy cũng đắt nhưng so với hà đỏ thì vẫn rẻ chán. Chúng tôi ra chợ, mua 3 lạng tôm sống cỡ ngón tay với giá 250 ngàn đồng một ký. Tổng chi phí mồi hôm nay hết 75 ngàn đồng. Trong khi đó, giá cá ngát ở miền Tây lúc này là 110-150 ngàn đồng một ký. “Câu được 2-3 ký là lãi rồi, hơn nữa nay ta đi chơi, chiều về có nồi lẩu cá ngát thì coi như thắng lớn” - anh Hội bảo.

Ở chợ Thới Lai, cơ man nào là cá. Nhiều cá nên giá rẻ: một ký cá mè vinh (loại cá có vảy nom tựa cá diếc, thịt cũng ngọt như cá diếc) cỡ bàn tay người lớn đã làm sạch chỉ có 30 ngàn đồng. “Xứ này cơm cá thiếu gì”, tôi bỗng chợt nhớ lời nhân vật lão Ba Ngù nói với thằng An trong phim Đất phương Nam (chuyển thể từ tiểu thuyết của Đoàn Giỏi). Anh Hội thì bảo thế là đã giảm nhiều so với trước. Miền Tây xưa tôm cá vô kể, dễ kiếm sống, nên dân miền Tây hồn hậu, hào sảng, hiếu khách nhưng “mặt trái là ít suy nghĩ sâu xa, không biết dành dụm cho mai sau”. Ngẫm ra cũng đúng. Hoàn cảnh làm nên tính cách mà.

Cá ngát khá giống cá trê nhưng đuôi nhọn, nhiều râu, ngạnh có độc.

Cá ngát khá giống cá trê nhưng đuôi nhọn, nhiều râu, ngạnh có độc.

Kiếm đủ mồi, chuẩn bị nước uống, mì gói phòng khi không chịu được đói, chúng tôi xuống xuồng máy chạy tuốt ra sông. Bây giờ đang là mùa nước, sông Ba Lai đỏ quạch phù sa. “Nước đục thì câu mấy con cá có râu là tốt nhất. Chúng kiếm mồi bằng mùi, tiếng động chứ không nhìn bằng mắt” - anh Hội nói.

Tôi ngắm nhìn dòng sông nước chảy ràn rạt. Mênh mông thế này, biết thả câu ở đâu? Anh Hội giải thích: Câu ở trên sông không giống câu trong ao hồ nhỏ. Phải biết ở đâu cá tụ mà thả mồi.

Điểm đến của chúng tôi đã dần hiện ra trước mắt. Đó là một dàn đáy của ngư dân giăng ngang dòng sông. Để làm đáy, người dân địa phương dùng những cây dừa già 70-80 năm tuổi, còn gọi là dừa lão, cao chừng 17-18m, đóng thẳng xuống đáy sông. “Dùng dừa lão là vì cây chắc khỏe, lại chịu được nước” - anh Hội nói. Giữa các cọc dừa lão, người ta chăng dây gia cố để dàn đáy có thể chịu đựng sức nặng của dàn lưới được thiết kế như cái túi hứng tôm cá theo dòng chảy xiết mùa lũ mà chui vào. Ở cuối đáy được buộc dây, khi thu tôm cá, ngư dân tháo dây đổ chúng vào lòng xuồng.

Thời điểm để đặt đáy là thủy triều chuẩn bị xuống (gọi là nước ròng), để đón những luồng cá tôm theo dòng nước đổ ra biển. Khi con nước chuẩn lên (nước lớn), dòng thủy triều từ biển đổ vào, ngư dân tháo đáy thu hoạch rồi cất đáy, chờ đợt nước rong tiếp theo.

“Chỗ có dàn đáy cũng là nơi tụ cá. Theo quy luật, bọn cá nhỏ sẽ quanh quẩn ở nơi có thể “dựa”, vừa tránh cá săn mồi, vừa kiếm ăn” - anh Hội nói. Nhưng trò đời là cứ ở nơi nào có cá nhỏ, thì sẽ có cá lớn mò đến săn chúng. Và ở nơi có cá lớn, lại có những “thằng người” ngồi trên thuyền đợi sẵn chực chờ tóm chúng.

Anh Hội cho thuyền dừng lại cách dàn đáy chừng 30m và thả neo. Đồ nghề của anh hôm nay là hai cây cần máy, chì 50gr, lưỡi đơn. Anh móc lưỡi từ đuôi con tôm, vòng theo bụng tôm, để khi hoàn tất thì lưỡi câu được giấu sát trong mình tôm. Anh quăng mồi cách dàn đáy chừng vài mét rồi bắt đầu chờ đợi cá cắn câu.

Nhưng có lẽ hôm nay không phải là một ngày may mắn với chúng tôi. Trời xầm xì, có thể đổ mưa bất cứ lúc nào. Ngồi cả tiếng mà chỉ lôi lên được một con cá út bằng cái chuôi dao. “Những ngày trời oi, áp suất không khí giảm, nhiều khi cá cũng biếng ăn” - anh Hội nói.

Ngồi thêm một giờ nữa cũng không thấy gì. Nhưng đối với dân câu, việc chờ hàng giờ mà cá không đụng chạm là chuyện thường. “Không nên nản, cần kiên nhẫn chờ đợi, có thể từ giờ đến chiều thời tiết thay đổi, cá sẽ đi ăn” - tay câu có hàng chục năm kiếm cá trên sông bảo tôi.

Trời đổ mưa. Chúng tôi chui vào lòng xuồng có mái che, vừa trú mưa vừa quan sát đọt của hai cây cần câu. Anh Hội nói cứ nhìn vậy thôi, nhưng anh bảo tỷ lệ dính cá trong khi trời đang mưa là rất thấp.

Mưa tạnh, trời quang, lại có gió nam thổi mát rượi. Anh Hội nói giờ đổi điểm câu được rồi. Chúng tôi quay xuồng chạy dọc sông Ba Lai, rồi dừng lại bên một đám chà.

Ở miền Tây, “bao chà” hay “dỡ chà” là một cách đánh bắt cá truyền thống. Họ chặt nhánh tre, lá dừa, lá dừa nước hay những loại cây rậm rạp, bó lại thành từng cụm lớn rồi thả xuống sông, rạch. Những cụm cây lá này tạo thành bóng mát, chỗ ẩn nấp và môi trường cho rong rêu bám, từ đó thu hút cá, tôm, cua kéo đến trú ngụ. Sau một thời gian, khi tin chắc trong đám chà đã có nhiều cá, người ta dùng lưới bao quanh, hoặc chài phủ lên toàn bộ khu vực, rồi dỡ chà ra để gom cá lại. Cách làm này giống như dựng “ngôi nhà” nhân tạo dưới nước cho thủy sản, nhờ đó cá tự tìm đến, vừa khai thác được nguồn lợi, vừa không làm cạn kiệt môi trường sống như những kiểu đánh bắt tận diệt khác.

Và đó là nơi chúng tôi thả câu. Quả là trời không phụ lòng người, vừa buông câu được hơn 15 phút, đầu một cây cần đã rung lên bần bật. “Dính rồi”, anh Hội reo lên và vội quay máy kéo cá. “Nhìn dáng bơi uốn éo thế kia thì đích thị y là cá ngát rồi” - anh Hội nói.

Quả đúng như lời anh, đó là một con cá ngát mồm đầy râu, nặng chừng 1 ký 2, giãy đành đạch trong lòng xuồng. Anh Hội chưa vội gỡ lưỡi câu mà dùng một cây kéo cắt ba cái ngạnh ở vây cá để đảm bảo an toàn.

Trong 2 giờ tiếp theo, anh câu thêm được 3 con cá nữa, tuy không to bằng con đầu tiên, nhưng tổng cộng buổi câu cũng được gần 4 ký cá.

Khi nồi canh chua cá ngát được bưng ra nghi ngút, khi mấy chén rượu đế đã được rót đầy và đều tăm tắp, trong như mắt mèo, anh Hội bảo: “Xưa cứ ra sông là có cá, ngày kiếm cả chục ký ngon lành. Giờ ít cá hơn nhiều, nên người miền Tây tụi tui có lẽ phải học dần cách giảm phụ thuộc vào thiên nhiên. Trồng lấy, nuôi lấy mà ăn, chứ cứ khai thác mãi cũng có ngày cạn kiệt, ông ạ”.

Trần Xuân

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/ve-mien-tay-san-ca-ngat.html