Lang thang 'chợ âm phủ' trên phố núi
Mặt trời ngả xuống núi, phố nhỏ lên đèn, êm đềm chìm trong làn sương trắng mong manh. Những gánh hàng rong kẽo kẹt ghì chặt từng đôi vai gầy. Các chị, các mẹ bắt đầu xuống 'chợ âm phủ', đem theo vận may một đêm chạy hàng.
Vì sao gọi “Chợ âm phủ”?
Cơn mưa khuya rả rích, lạnh đến tím người, nhịp sống chợ âm phủ mùa du lịch bỗng chùng hẳn xuống. Chợ tối nay không đông như mọi khi. Ngại mưa gió, khách tìm tới chốn khô ráo. Với người buôn bán ở chợ đêm Đà Lạt (Lâm Đồng), điều đó thật tồi tệ. Nó đồng nghĩa với một đêm thất bát. Vắng khách, lạc lõng những phận đời long đong trong cơn mưa lạnh. Người bán hàng rong ở chợ đêm Đà Lạt sống khỏe nhất vào mùa du lịch, từ cuối tháng 4 đến hết tháng 8. Thời điểm này, vừa làm vừa chơi tiền vẫn vào rủng rỉnh. Những tháng còn lại, họ buôn bán cầm chừng, nhiều tối ế chỏng chơ.
Lúc bấy giờ, còn nhớ mấy bận liền, bạn tôi chẳng bán được đồng nào, thế mà có ngày người lâm bệnh, nghỉ một tối cô ấy lo đến đứt ruột. Sợ khách tìm đến mua hàng mình mà không gặp, chuyển sang mua của người khác, mất mối như chơi. Ngày chợ vắng khách, cánh buôn bán lặt vặt ở “chợ âm phủ” xúm lại tán gẫu. Khuya khuya, họ lục đục dọn hàng về tranh thủ ngủ, mai còn lo đi kiếm tiền sớm bằng một công việc khác.
Tôi đi trong cơn mưa tối để tìm câu trả lời vì sao chợ đêm Đà Lạt lại có tên gọi khác làm cho người yếu bóng vía phải khiếp hãi: Chợ âm phủ!... Chợ của những hồn ma? Với tôi, cánh buôn bán chợ này không có gì xa lạ. Dù chẳng phải là gặp nhau ngày một nhưng mấy chiến hữu mỗi lần sát mặt tranh thủ lúc vắng khách lại lai rai vài xị rượu đế cho ấm bụng mà dốc bầu tâm sự. Thành thử, cánh này mặc nhiên “đặc cách”, coi tôi là người chợ đêm của họ. Cạn ly rượu thứ ba, theo chỉ dẫn của Hùng “râu”, một tay đàn anh, có thâm niên buôn bán quần áo “si đa” (đồ cũ) ở chợ này, tôi bước sang bên kia góc chợ, nơi đó dày đặc bóng tối với cụ bà lưng còng, thu mình trong tà áo mưa ngắn. Trước mặt cụ là mớ dâu tây tươi đựng trên cái nia ướt sũng.
Cụ là Hà Thị Nở. Hỏi tuổi, cụ chẳng nhớ. Lớp da đồi mồi, nhéo quặn thắt chặt lấy bộ xương đủ biết, năm nay cụ đã ở cái tuổi thất thập cổ lai hy. Về tuổi nghề ở chợ này, cụ nói đã làm gãy mấy chục cái đòn gánh. “Bắp sú, cải thảo nặng lắm. Ngày còn khỏe, má gánh mỗi lần bảy tám chục ký vẫn đi băng băng. Đòn gánh loại tốt chỉ trụ được vài tháng...”, cụ Nở kể. Góp nhặt từng đồng, ngày đói, bữa no. Đôi vai của cụ gắn liền với gánh hàng rong kẽo kẹt, thế mà nuôi đủ 4 người con. Chồng cụ đoản mệnh, ngoài 30 tuổi lâm bệnh nặng, bỏ cụ mà đi từ đó. Không còn chồng, gánh hàng toàn là lagim (các loại rau) nặng hơn để tương thích với 5 miệng ăn. Hơn 50 năm buôn bán ở chợ này, cụ Nở dõi theo sự đổi thay, phát triển của nó trong từng giai đoạn và biến cố lịch sử.
Giữa thế kỷ XX, vùng rau Đà Lạt vươn mình thức giấc. Rau tới Đồng Nai, Sài Gòn hay tỏa xuống vùng Phan Rang, Phan Thiết, rồi ngược ra cả miền Trung. Có khi, rau Đà Lạt còn theo những chuyến xe hậu cần quân sự chở tới vùng nào đó phục vụ nhu cầu của nhà binh. “Chiến tranh nổ ra, hằng ngày có cả trăm chiếc xe tải tìm đường lên Đà Lạt mua rau chở về xuôi. Để rau được tươi xanh, tranh thủ thời gian, ban ngày còn phải làm vườn, người trồng rau khi đó thỏa thuận với người mua giao hàng vào lúc nửa đêm, rạng sáng. Địa điểm là chợ Đà Lạt, vốn là nơi trung tâm nhất...”, cụ Nở kể. Bấy giờ, chợ không có đèn điện chiếu sáng như ngày nay. Mọi người lục đục, lầm lũi làm việc trong bóng đêm, lập lòe ánh sáng như những bóng ma. “Chợ âm phủ” Đà Lạt ra đời trong hoàn cảnh như thế. Chợ là nơi quần tụ những mảnh đời lao động chân tay vất vả, tranh thủ ngủ ngày, kiếm ăn ban đêm như những thân vạc.
Không kể những hàng quán ăn uống có quy mô dọc lối vào chợ Đà Lạt theo đường Nguyễn Thị Minh Khai, hay hai bên bậc thềm lối lên khu Hòa Bình, người bán hàng chợ đêm Đà Lạt hầu hết là “nghề tay trái”. Ban ngày, có người chạy xe thồ, kẻ phu hồ, người cắt rau thuê, kẻ bốc vác... Sau một ngày làm việc nhọc nhằn, đêm xuống, họ quy tụ ra đây, chở theo mớ rau, gánh bơ, thúng dâu tây, nia móc khóa, mẹt khoai nướng, túm bóng bay... Hay như Vũ Thịnh, bạn tôi, vốn liếng chỉ là đôi bàn tay tài hoa, mớ giấy, bút chì, kiếm sống bằng nghề họa chân dung. Người có vốn liếng kha khá thì tậu quần áo len, đồ lạnh cũ về bán cho khách du lịch. Ban ngày, chợ bày bán đủ thứ, nhưng nghiêng về thực phẩm ăn uống, sản phẩm tiêu dùng, vật dụng là nhu cầu thiết yếu hằng ngày, hướng tới phục vụ người dân địa phương. Đêm xuống, người ta bán chủ yếu là quần áo ấm, đồ lưu niệm, đặc sản Đà Lạt hoặc những mặt hàng nghiêng về giá trị tinh thần.
Văng vẳng tiếng rao...
Đã có thời điểm chính quyền cấm “chợ âm phủ” Đà Lạt sau khi để xảy ra tình trạng phức tạp về an ninh, trật tự. Chợ hoạt động về đêm, mùa du lịch dập dìu du khách. Cánh anh chị có máu mặt tứ xứ dạt về đây sống bằng “nghề” bảo kê, móc túi, tranh giành lãnh địa, xưng hùng xưng bá. Chẳng mấy chốc chợ trở thành điểm đen chứa chấp mầm mống tội phạm. Những vụ móc túi, đâm chém, nạt nộ, bắt chẹt du khách xảy ra. Quản lý không được, chính quyền cấm chợ đêm. Nhưng, cấm riết rồi cũng đâu có xong. Dân chợ phản ứng dữ lắm, vì đó là nơi họ kiếm sống hàng chục năm qua. Cấm chợ rồi cả trăm con người biết bám víu vào đâu để sống, rồi số người ăn theo sức lao động của họ còn đông hơn nhiều. Khách du lịch mất chỗ thăm thú về đêm, lên tiếng chỉ trích. Thế là chợ được mở cửa trở lại. Cánh kiếm sống ở “chợ âm phủ” mừng ra mặt.
Từ ngày tới đất này ngụ cư, đã có đôi lần, tôi như một lữ khách háo hức thức trắng đêm cùng cánh hàng rong ngoài chợ cho thỏa thú phiêu lưu. Tiếng rao bán quần áo “si đa” khiến tôi khoái chí đến tận bây giờ. Chưa thấy ở đâu người ta có kiểu bán hàng lạ như ở chợ xứ này. Khi ấy, người ta không có thói quen treo bảng giá như bây giờ. Để không bỏ tuột mất khách, thấy ai tới gần, chủ hàng quần áo rao lớn: “Mười lăm, mười lăm, mười lăm... rẻ, đẹp, lựa xài... rẻ, đẹp, lựa xài...”. Ý chủ muốn nói: Hàng của họ tuy cũ nhưng mà đẹp, bền, giá lại rẻ, cứ việc lựa về mà xài. Thành thử, cả chợ đều có lối bán hàng như thế. Nghe xốn xang nhưng thật vui tai. Cái duyên bán hàng ở chợ đêm Đà Lạt chất phác, quê mùa giữa phố thị.
Cũng phải thôi, người buôn bán ở “chợ âm phủ” Đà Lạt phần lớn là nông dân tứ xứ thứ thiệt. Nhiều nhất đến từ vùng Quang Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên..., xa hơn nữa là Thanh Hóa, Nghệ An, đến vùng Hà Giang, Lạng Sơn... cũng có. Ở họ, điểm chung là vùng đất quê nhà khắc nghiệt, không lo nổi miếng cơm manh áo, phải đèo bòng, dìu dắt nhau dạt vào đây kiếm ăn mong có ngày thay vận, đổi đời. Cuộc sống bây giờ dù vẫn còn cơ cực nhưng “dễ thở” hơn quê nhà, nếu chịu khó “cày” thì sống khỏe re. Có người gia đình đã vào Đà Lạt định cư đến đời thứ hai như anh Vương Văn Quý, chị Hà Thị Mây... nhưng cũng có người mới vào được ít năm như Nguyễn Khánh Hoàng, Đặng Văn Hào... hay vừa lên Đà Lạt được 4 tháng qua để bán dạo theo mùa du lịch như nhóm người đến từ Quảng Nam: Út “ngố”, Minh “đen”, Bảy “gù”, Hương “sún”...
“Chợ âm phủ” Đà Lạt thường họp từ 7 giờ tối hôm trước đến 3-4 giờ sáng hôm sau thì nhường chỗ cho chợ ngày. Khách đến không phân biệt sang hèn, từ những tay chạy xe thồ thức khuya đón khách, người lao công quét đường vừa xong ca, những nhạc công, ca sĩ vừa rời quán bar, vũ trường, đến những cô cậu sinh viên ít tiền, lãng mạn, thích lang thang, hay khách du lịch muốn thưởng thức hương vị Đà Lạt về đêm. Ở “chợ âm phủ” chẳng có giới hạn nào cho sự giàu sang hay nghèo hèn. Người ta đến chợ có khi trong người không một đồng dính túi, như thời sinh viên chúng tôi chẳng hạn. Vậy mà tuần nào cũng phải ra lượn dạo một vòng chợ mới chịu. Đến để ngắm, để lựa, để thử mà không bắt buộc phải mua.
Ở đây, đôi khi người ta đối đãi với nhau như những bậc quân tử, lấy nghĩa tình làm trọng. Thế nhưng, cũng không ít kẻ hám tiền bạc mà coi nhẹ nghĩa khí, danh dự. Đó là những lần xảy ra cảnh mồi chài, níu kéo, bắt chẹt du khách, khiến cho những người làm ăn chân chính bị phen xấu mặt lây.
Bây giờ, “chợ âm phủ” Đà Lạt đã khác...
Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/phong-su/lang-thang-cho-am-phu-tren-pho-nui-i741567/