Lãnh đạo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật công bố con số bất ngờ về rau VietGAP

Để đảm bảo an toàn thực phẩm, yếu tố cơ bản nhất là phải có quy trình sản xuất chuẩn, trong đó VietGAP là yêu cầu tối thiểu. Song, lãnh đạo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết, diện tích rau VietGAP chiếm chưa đến 1%.

Tại tọa đàm “Nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm nông sản trong nước” sáng 23/9, ông Nguyễn Văn Mười - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cho biết, để đảm bảo an toàn thực phẩm, yếu tố cơ bản nhất là phải có quy trình sản xuất chuẩn, trong đó VietGAP là yêu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, theo báo cáo hiện chỉ khoảng 5-6% rau đạt tiêu chuẩn này.

Khi tiêu chuẩn tối thiểu không được đáp ứng, chúng ta đang buông lỏng chất lượng và người tiêu dùng phải gánh chịu hậu quả, ông chỉ rõ.

Theo ông Nguyễn Quý Dương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ NN&MT), công tác quản lý an toàn thực phẩm hiện nay được phân công cho ba Bộ: Y tế, Công Thương và NN&MT.

Đối với lĩnh vực trồng trọt, khâu sản xuất là yếu tố quan trọng nhất trong bảo đảm an toàn thực phẩm. Việt Nam hiện có khoảng 10 triệu hộ nông dân với diện tích rau 1,15 triệu ha và cây ăn quả khoảng 1,3 triệu ha. Nguồn cung này không chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước mà còn dành cho xuất khẩu, do đó, chất lượng sản phẩm được cả người tiêu dùng nội địa và các thị trường nhập khẩu đặc biệt quan tâm.

“Muốn có thực phẩm an toàn thì gốc rễ phải bắt đầu từ sản xuất”, ông Dương nhấn mạnh. Từ năm 2008, Bộ NN&MT đã ban hành quy định và khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.

Rau sạch được rao bán tràn ngập thị trường nhưng thực tế chỉ 0,5-0,6% diện tích trồng rau xanh ở nước ta được chứng nhận VietGAP. Ảnh: Tâm An

Rau sạch được rao bán tràn ngập thị trường nhưng thực tế chỉ 0,5-0,6% diện tích trồng rau xanh ở nước ta được chứng nhận VietGAP. Ảnh: Tâm An

Tuy nhiên, theo kết quả điều tra 5 năm một lần, công bố năm 2024, tổng diện tích được chứng nhận VietGAP chỉ đạt khoảng 150.000 ha cho 6 nhóm cây trồng. Trong đó, riêng rau đạt hơn 8.000 ha trên tổng số 1,15 triệu ha, tức chưa đến 1% (khoảng 0,5-0,6%) được chứng nhận VietGAP.

Nếu tính cả các chứng nhận khác, bao gồm GlobalGAP, thì diện tích rau cũng chỉ dừng ở 8.400 ha có chứng nhận. Ông Dương thừa nhận đây là con số rất khiêm tốn so với quy mô sản xuất và nhu cầu tiêu thụ hiện nay. Đặc biệt, rau đang là mặt hàng được người dân sử dụng hằng ngày nhưng có tỷ lệ sản xuất theo chuẩn an toàn quá thấp.

Ngoài VietGAP, hiện cũng có một hình thức cam kết sản xuất an toàn do nông dân ký trực tiếp, nhưng quy mô còn nhỏ lẻ, phân tán, chưa tạo được sự thay đổi căn bản trong sản xuất rau quả an toàn, vị Phó Cục trưởng cho hay.

Trước thực trạng trên, ông Nguyễn Văn Mười một lần nữa cảnh báo cần có các biện pháp mạnh hơn để kiểm soát hàng hóa lưu thông trên thị trường, nhất là rau xanh.

Theo Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, điều người tiêu dùng quan tâm nhất là dư lượng hóa chất nên cơ quan bảo vệ thực vật cần nâng cao trách nhiệm. Các sản phẩm bảo vệ thực vật phải được quản lý theo đơn, không thể mua tùy tiện. Tùy từng loại thuốc, thời gian cách ly có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng. Nếu người sản xuất không có ý thức, người tiêu dùng sẽ là người chịu thiệt.

Về thị trường, ông Mười cho rằng chợ và hệ thống siêu thị có thể quản lý, còn các cửa hàng nhỏ lẻ thì rất khó kiểm soát. Vì vậy, cần phát triển các điểm bán tập trung để dễ quản lý, giảm rủi ro cho người tiêu dùng. Phải hạn chế hình thức bán hàng tràn lan trên vỉa hè, lề đường. Hoạt động bán lẻ cần được chú trọng hơn trong sự quản lý chặt chẽ, với những quy định nghiêm ngặt.

Các cơ sở sản xuất cũng cần đáp ứng tiêu chuẩn trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Một nông dân mỗi năm có thể cung cấp hàng chục, thậm chí hàng trăm tấn rau, nhưng vẫn chưa có biện pháp quản lý an toàn tương xứng. Đây chính là lỗ hổng quản lý cần được chú trọng siết chặt, ông Mười chỉ rõ.

Ông Nguyễn Quý Dương nhận định, ở nước ta sản xuất nhỏ lẻ là thực tế khó thay đổi trong ngắn hạn. Do đó, giải pháp cần thiết là khuyến khích nông dân tham gia vào các nhóm, hợp tác xã để cùng xây dựng thương hiệu chung, gắn với mã số vùng trồng, bao bì và truy xuất rõ ràng. Sản phẩm có thể tiêu thụ ở chợ truyền thống, siêu thị hay kênh bán lẻ hiện đại, nhưng phải bảo đảm chất lượng và trách nhiệm của người sản xuất.

Muốn vậy cần kết hợp đồng bộ nhiều yếu tố như cơ chế giám sát và chế tài đủ mạnh, liên kết sản xuất - tiêu thụ, đồng thời đẩy mạnh truyền thông nhằm thay đổi nhận thức người sản xuất và người tiêu dùng.

Tâm An

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/lanh-dao-cuc-trong-trot-va-bao-ve-thuc-vat-cong-bo-con-so-bat-ngo-ve-rau-vietgap-2445382.html