Lầu vàng ngân vọng hồn thơ ông hoàng

Sau đúng 16 năm tôi mới trở lại Huế. Dường như Huế vẫn vậy: dịu dàng, trầm tư, xưa cũ... Chỉ tôi đổi khác, chàng trai ba mươi như cánh chim bằng giữa trời mộng ngày ấy, nay đã thành một trung niên U50, tóc muối tiêu, 'đính kèm' một cô vợ và ba đứa con.

Từ Quảng Nam qua Đà Nẵng, chúng tôi đến Huế và lưu lại đất Kinh đô ba ngày. Cả nhà háo hức khám phá dòng Hương, thăm nhà vườn An Hiên, chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén,... Rồi đến cầu Trường Tiền, thăm Đại Nội và ngày cuối cùng thăm viếng một số lăng tẩm của các vị vua, chùa Từ Hiếu,...

Chúng tôi, tất cả năm con người, đều dành tình yêu và sự say mê đặc biệt với thành phố này, lúc ấy cũng như sau rất nhiều ngày tạm biệt Huế. Để rồi, có một sớm mai, nhìn mưa xứ Đoài, mảnh đất nhiều mây và nắng, tôi ngỡ phía xa màn mưa kia là dòng Hương lững lờ trôi và những tàng cây xanh ngắt như những bàn tay thức gọi.

Phủ thờ Tuy Lý Vương.

Phủ thờ Tuy Lý Vương.

Buổi chiều, trong lúc đợi chuyến tàu đêm về Hà Nội, chúng tôi đến quán Vĩ Dạ Xưa (số 131 Nguyễn Sinh Cung). Đêm trước, cả nhà từng dạo bộ trên con phố này và một người phụ nữ thanh nhã tình cờ gặp trên đường đã nói rằng nơi đây chính là thôn Vĩ Dạ thuở trước. Vậy là bao xúc cảm về một Vĩ Dạ thơ và mộng, đẹp và buồn, tình và thương,... trong áng thơ Hàn Mặc Tử tôi từng mê đắm ùa ạt trở về. Nhưng đêm ấy, dưới ánh đèn vàng của tuyến phố nhà xe san sát, tôi đã không tìm thấy một hình ảnh nào của những câu thơ năm cũ. Thế nên mới có cuộc trở lại, trước khi chúng tôi rời Huế.

Lặng lẽ ngắm từng chi tiết ngôi nhà gỗ được phục dựng theo đúng chuẩn mực nhà rường Huế giữa khuôn viên Vĩ Dạ Xưa, tôi thầm nghĩ chủ nhân của ngôi nhà đã yêu Huế, yêu những gì thuộc về xưa cũ biết nhường nào. Những món đồ lưu dấu thăng trầm được bài trí hài hòa gợi bao hoài niệm về một thời quá vãng. Những bóng cau cao vút, những tàng cây thanh yên, dòng nước róc rách chảy giữa các hồ cá quanh nhà, và cả những lớp rêu dưới gốc cây cỏ đều cho nơi này vẻ tư mặc, bằng an.

Chúng tôi uống trà thảo mộc, ngắm dòng Hương trôi như mê ngủ phía sau ngôi nhà. Giữa mùa hạ, đôi bờ sông cây lá xanh ngời, thoảng trong gió mùi hương dịu dàng, không biết hương của dòng sông hay hương của hoa trái chín cây? Mấy ngày ở Huế, mỗi lúc bên dòng Hương, bọn trẻ con trở nên điềm đạm đến lạ, phải chăng cái vẻ êm đềm, chậm rãi, la đà của sông, kì diệu thay, đã thấm vào tâm hồn của bọn trẻ?

“Vườn thơ” giữa đất Vĩ Dạ

Lưng lửng chiều, từng tia nắng rải vàng xuống mặt sông, lớp lớp sóng lấp lánh như trôi trong ảo ảnh. Hàng tiếng đồng hồ đã qua, bọn trẻ con vẫn mải mê nhặt quả chín trong vườn thả xuống mặt nước cho lũ cá.

Vợ tôi dõi theo một con thuyền lướt nhẹ, không biết nàng nghĩ gì mà chợt mỉm cười, nụ cười như lồng trong ấy nét thanh thuần của bông hoàng lan mà tôi gặp buổi đến nhà vườn An Hiên. Có lẽ về với Huế, trong vòng ôm của Huế, những người nữ dù trăm tính ngàn nết đều trở nên đằm thắm, dịu ngọt. Tôi dụ nàng một vòng dạo phố, nàng bảo nếu tôi muốn có thể đi một mình, nàng thích ngắm sông và bọn trẻ thì đang chơi cùng lũ cá.

Tôi ra phố, nhủ lòng cứ đi để tìm một điều gì đó mà chưa kịp gọi tên. Ngó trước sau chưa biết rẽ hướng nào, nhìn về phía trước... ngỡ ngàng một tòa cổng ba cửa vàng son lồng lộng. Tôi gọi là “tòa cổng” bởi vẻ đẹp uy nghi, tráng lệ của nó. “Phủ Tuy Lý Vương”, người phụ nữ bán nước mía gần tòa cổng nói với tôi bằng chất giọng rất Huế, rất mềm. Và ngay lúc ấy, tôi biết mình đã có duyên được thăm “vườn thơ” của một “thi bá”, “ông hoàng thơ” nổi tiếng bậc nhất triều Nguyễn, người xuất hiện trong câu thơ lưu danh văn đàn của vua Tự Đức: “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”.

Vĩ Dạ xưa có tên Vi Dã, là một trong bốn vùng ngoại ô của Kinh thành Huế. Đây chính là nơi an cư của các vị quan hưu trí ngày tháng du nhàn, các bậc tao nhân mặc khách, những trí giả có tư tưởng tự do, phóng khoáng,... Là hoàng tử thứ 11 của vua Minh Mạng và tiệp dư Lê Thị Ái, Nguyễn Phúc Miên Trinh (tên thật của Tuy Lý Vương) có dung mạo đẹp đẽ, thông minh, ngay từ nhỏ đã bộc lộ tài thơ thiên phú. Tâm hồn ông sớm thấm đẫm tình yêu sông núi, cỏ cây và khát vọng hòa mình với đời sống nhân quần.

Miền đất Vĩ Dạ vẫy gọi ông và tòa phủ đã được dựng lên. Phủ là nơi sinh sống của gia đình ông hoàng, nơi ông chăm sóc, kính hiếu sinh mẫu - tiệp dư Lê Thị Ái. Nơi đây trở thành “vườn thơ” nức tiếng đất kinh kì, là chốn lui tới giao du của các văn nhân, thi sĩ nổi danh thời ấy. Hầu hết các trước tác của “ông hoàng thơ” đều được ra đời từ miền đất thơ mộng, yên bình này: "Vĩ Dạ hợp tập" (gồm 12 quyển: 6 quyển thơ, 5 quyển văn, 1 quyển tự truyện), "Nữ phạm diễn nghĩa từ", "Hòa Lạc ca", "Nghinh Tường khúc",...

Thơ văn của ông là những bài ca về cương thường, gia đạo; là tiếng vọng của một tâm hồn thi sĩ muốn được trải lòng với giang sơn cẩm tú, hòa mục trong xóm mạc thôn làng, đồng điệu mến ái huynh đệ, bằng hữu. Đặc biệt, ông là một thi sĩ hiện thực, luôn tự vấn để tìm lời giải về thế nước, vận nước, về đời sống của những kiếp người trong cõi thế:

Ra Bắc xóm làng không cửi canh
Vào Nam đồn lũy vẫn còn tranh
Ăn sang mặc gấm đều vô bổ
Thẹn bạn ăn hoa mặc cỏ mành(*)

Tự hào về những di sản của ông cha

Qua cổng, tôi bước vào khuôn viên phủ trong cái tĩnh lặng như ngưng đọng thời gian, một cảm giác thường thấy mỗi khi bước vào thế giới của những cung phủ, đền đài, lăng tẩm,... Bên trái hai tòa nhà rường, một dãy nhà cấp bốn khá nhiều phòng ở, tôi gõ cửa một căn phòng khép hờ. Một em gái còn trẻ, xinh xắn bước ra, tôi chào em và ngỏ ý muốn vào thăm phủ. Em gật nhẹ, lễ phép, rồi chạy qua phòng bên gọi cha. Trong căn phòng cô gái có dăm, bảy học sinh đang ngồi làm bài, có lẽ em là cô giáo.

Gian thờ có ảnh chân dung và các bài thơ của Tuy Lý Vương.

Gian thờ có ảnh chân dung và các bài thơ của Tuy Lý Vương.

Ông Nguyễn Phúc Vĩnh Phú, hậu duệ đời thứ tư của Tuy Lý Vương dẫn tôi thăm một vòng khuôn viên phủ. Theo lời ông Phú, chỉ các hoàng tử được phong tước “vương” mới được xây phủ có cổng ba cửa nên dân quanh vùng gọi phủ Tuy Lý Vương là phủ Ba Cửa. Toàn bộ công trình được xây dựng theo phong cách kiến trúc cung đình với hình long, ly, quy, phượng đắp bằng nghệ thuật khảm sành sứ. Một bức bình phong phía sau tòa cổng còn khá nguyên vẹn, đắp hình long mã, trang trí các họa tiết hoa văn truyền thống.

Tòa nhà rường phía trước một gian hai chái, bên trong treo bức hoành phi “Tiền triều Lê tiệp dư từ”, là nơi thờ tiệp dư Lê Thị Ái. Ngôi nhà ba gian hai chái phía sau là phủ thờ Tuy Lý Vương. Bức hoành phi bốn chữ “Tuy Lý Vương từ”, ban thờ, khám thờ, câu đối, các bài thơ và một số hình ảnh của Tuy Lý Vương lúc sinh thời.

Diện tích vườn của phủ hiện không nhiều, chỉ còn vài khoảnh sân và lối đi. Ông Phú bảo ngày trước phủ rất rộng, còn nhiều công trình khác nữa, rồi ông chỉ ra ba phía quanh phủ. Nhân gian biến cải, mọi sự đã đổi thay, theo hướng tay ông, tôi như thấy những khu vườn xanh mát, những lầu gác, cầu kiều,... nhập nhòa nhân ảnh “ông hoàng thơ” cùng văn hữu đàm đạo văn chương, thế sự.

Ông Phú chia sẻ, phủ còn giữ được vẻ đẹp như hiện nay là do công tác bảo tồn của Nhà nước và công sức tu bổ từ hậu duệ của cụ Tuy Lý Vương. Hàng năm, vào ngày húy kỵ đức ngài (23/10 âm lịch) con cháu từ mọi miền đất nước và nước ngoài về dâng hương tưởng nhớ ngài, kết nối anh em, con cháu.

Ông Phú cùng vợ, gia đình hai người con trai và cô con gái út sinh sống trong khuôn viên phủ, được dòng họ giao việc chăm sóc, hương khói tổ tiên. Ông là giáo viên Vật lí nghỉ hưu, vợ buôn bán ngoài chợ, hai người con trai là công nhân. Cô con gái tốt nghiệp ngành sư phạm nhưng chưa xin được việc làm, mở lớp tại nhà để giữ lửa với nghề, kiếm thêm thu nhập phụ giúp cha mẹ. Ông còn kể cho tôi nhiều chuyện khác nữa, bên trong và bên ngoài phủ.

Bóng tà dương từ phía dãy núi mờ xa chiếu những ánh vàng yếu ớt lên phủ. Khắp không gian nhuốm một vẻ trầm mặc, u hoài. Gương mặt ông Phú cũng mang vẻ u hoài, nhưng thẳm sâu trong mắt ông, tôi thấy một sự điềm tĩnh, ẩn chứa niềm kiêu hãnh.

Trước khi tạm biệt, tôi hỏi ông: “Chú nghĩ sao về những gì đã qua của dòng họ? Cuộc sống hiện tại của chú và gia đình vẫn ổn?”. Im lặng,... rồi ông bảo không có gì là bất biến, ông hiểu sự đổi thay ở đời. Ông tin lịch sử luôn công bằng và tự hào về những công lao của tổ tiên. Dù trong hoàn cảnh nào ông cũng răn dạy con cháu sống tử tế, xứng đáng với truyền thống gia đình, dòng họ....

Lời nói của ông cho tôi hiểu về cái vô thường của mọi sự, mọi vật giữa dòng chảy thời gian. Và tôi bỗng thấy lòng bình yên đến lạ, trước khi rời Huế...

--------

(*) Tuế mộ (Cuối năm), bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Nguyễn Phú

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/lau-vang-ngan-vong-hon-tho-ong-hoang-i772210/