Liên kết sản xuất vấn đề 'cốt lõi' của ngành hàng lúa gạo vùng ĐBSCL
Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 đã chứng minh giảm lượng giống, giảm phân bón, thuốc trừ sâu, gia tăng lợi nhuận cho người dân và góp phần giảm phát thải khí nhà kính trong canh tác lúa.
Tuy nhiên, để nhân rộng và đạt được diện tích 1 triệu ha theo kế hoạch cần có sự liên kết chặt chẽ giữa người dân, HTX, doanh nghiệp để tổ chức lại sản xuất, hình thành vùng nguyên liệu tập trung, đồng bộ về giống, kỹ thuật, chất lượng, đáp ứng yêu cầu thị trường và từng bước tham gia vào thị trường tín chỉ carbon.
Năm 2025 được xem là năm quan trọng, đánh dấu giai đoạn kết thúc của giai đoạn đầu Đề án. Vì vậy, để đạt mục tiêu theo kế hoạch và đạt 1 triệu ha vào năm 2030, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các địa phương đang quan tâm, hỗ trợ triển khai các mô hình canh tác giảm phát thải, dự kiến năm nay sẽ có khoảng 300.000 ha phát thải thấp được triển khai, đóng góp quan trọng trong xây dựng, khẳng định vị thế ngành hàng lúa gạo.
Cánh đồng trồng lúa giảm phát thải của HTX Tiến Thuận, tại Cần Thơ là mô hình được Bộ NN&MT thí điểm, qua 3 vụ canh tác thí điểm mô hình đã chứng minh được tính hiệu quả, giảm lượng giống, giảm phát thải, tăng năng suất và lợi nhuận cho người trồng lúa.

Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc HTX Tiến Thuận cho biết, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đã mang lại những tín hiệu tích cực cho người nông dân, góp phần nâng cao thương hiệu gạo Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Giám đốc HTX Tiến Thuận - Nguyễn Cao Khải và nhiều nông dân vẫn còn những trăn trở về liên kết giữa HTX và doanh nghiệp do sự nghi ngờ và thiếu tin tưởng lẫn nhau. Cùng với đó, để sản phẩm vào được thị trường Châu Âu phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm, đây cũng là thách thức lớn đối với người dân hiện nay. Vì vậy, để nhân rộng Đề án và nâng cao chất lượng lúa gạo cần có chính sách hỗ trợ cho người dân, HTX để tạo động lực trong tham gia sản xuất gạo chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Đồng thời, nhân rộng các mô hình kinh tế tuần hoàn, sản xuất nấm, phân hữu cơ, nhằm tăng giá trị gia tăng và hiệu quả sản xuất cho người dân, HTX.

Liên kết sản xuất vấn đề “cốt lõi” của ngành hàng lúa gạo vùng ĐBSCL
Ông Khải chia sẻ: "HTX Tiến Thuận được thực hiện 1 triệu ha điểm của Bộ, năng suất có, giảm phát thải có, đưa đến hiệu quả rất cao, tôi rất hoan nghênh và ủng hộ nhiệt tình Đề án. Làm mô hình 1 triệu ha rồi giờ tôi đăng ký sản xuất tuần hoàn, khép kín, tôi đã đưa rơm làm nấm, xong tôi lấy phế phẩm nấm đó để thành phân hữu cơ và giá thể hữu cơ".
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ NN&MT, liên kết giữa người dân, HTX, doanh nghiệp trong Đề án 1 triệu hecta đóng vai trò then chốt, quyết định đến thành bại của Đề án. Vì vậy, cần xây dựng các mô hình liên kết để hình thành vùng nguyên liệu tập trung, đồng bộ về giống, kỹ thuật, chất lượng để đáp ứng yêu cầu thị trường. Cùng với đó, liên kết là điều kiện tiên quan trọng trong việc tiếp cận nguồn cận tín dụng ưu đãi, truy xuất nguồn gốc, áp dụng kỹ thuật canh tác bền vững và tham gia vào thị trường tín chỉ carbon.

Liên kết để tạo ra sản phẩm chất lượng, đồng đều về tiêu chuẩn, tạo ra chuỗi sản xuất khép kín từ đầu vào, đến đầu ra
Ông Nguyễn Tiến Định, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, việc xây dựng hướng dẫn thực hiện liên kết giữa doanh nghiệp và HTX trong khuôn khổ Đề án 1 triệu hecta để làm rõ vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của các bên trong chuỗi giá trị. Cùng với đó, xây dựng, phát triển liên kết bền vững, hiệu quả, hướng tới truy xuất nguồn gốc, thị trường xuất khẩu và thị trường tín chỉ carbon trong khuôn khổ Đề án.
Theo ông Định: "Để đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp là cái vai trò của HTX được đề cao, là tổ chức kinh tế tập thể trung gian chiến lược, là chủ thể kinh tế độc lập, là đối tác để doanh nghiệp ký kết hợp đồng liên kết. Cái thứ hai thông qua HTX thì HTX phải gắn kết được với các thành viên, tổ chức được cho các thành viên để sản xuất theo quy trình cũng như kiểm soát quá trình thực hành, cũng như kiểm soát được việc thu mua sản phẩm. Đặc biệt thông qua mô hình này là điều kiện để kết nối chính sách giúp cho nông dân, HTX tiếp cận được tín dụng, đào tạo, tài chính, quản trị rủi ro, đảm bảo công bằng".
Liên kết để tạo ra sản phẩm chất lượng, đồng đều về tiêu chuẩn, tạo ra chuỗi sản xuất khép kín từ đầu vào, đến đầu ra, doanh nghiệp kiểm soát được chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường.

Nông dân thu hoạch lúa ở ĐBSCL
Ông Võ Quang Hải, Tập đoàn Tân Long cho biết, hiện Tập đoàn có 7 nhà máy chế biến gạo xuất khẩu, nhu cầu liên kết và tiêu thụ lúa gạo của Tập đoàn trải dài ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu tại một số địa phương có diện tích lớn về sản xuất lúa gạo.
Mô hình liên kết sản xuất giữa Tân Long với các HTX đang được triển khai với hình thức thông qua diện tích sản xuất, ký hợp đồng liên kết với HTX và ứng vốn trước từ 3-5 triệu đồng/ha theo nhu cầu của HTX. Cùng với đó, trước khi thu hoạch khoảng 7-10 ngày, Tập đoàn sẽ phối hợp với HTX để cùng lập lịch thu hoạch và chốt giá bán, điều này đã giúp HTX an tâm sản xuất và đảm bảo các tiêu chuẩn, chất lượng theo yêu cầu của Tập đoàn.
Tuy vậy, trong một số trường hợp giá lúa biến động tăng cao, nông dân muốn bán cho đơn vị khác, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Vì vậy, để đảm chuỗi liên kết bền vững thì vai trò của HTX rất quan trọng trong điều phối mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp, đặc biệt khi xảy ra các sự cố trong quá trình hợp tác.
Ông Võ Quang Hải cho biết thêm: "Khi hợp tác, liên kết có rất nhiều vấn đề diễn ra thì tiếng nói trung gian trọng tài của HTX cũng rất quan trọng, từ hành xử của xã viên với doanh nghiệp xảy ra trong sự cố khi thu hoạch. Rất mong có cơ hội để liên kết với các HTX mà có ban điều hành cũng như là vai trò, tiếng nói quyết định được mối quan hệ liên kết giữa vùng nguyên liệu với doanh nghiệp".

Bài toán hợp tác, liên kết sản xuất giữa người dân, HTX, doanh nghiệp được xem là lời giải cho vựa lúa vùng ĐBSCL
Một số doanh nghiệp đã chủ động bắt tay cùng HTX xây dựng vùng nguyên liệu quy mô lớn, kiểm soát chất lượng theo yêu cầu xuất khẩu. Ông Phạm Thái Bình, Công ty Cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An, TP. Cần Thơ cho biết, Công ty đã thực hiện thực hiện mô hình liên kết từ năm 2011 và đã chứng minh được hiệu quả. Tuy nhiên, liên kết trong ngành lúa gạo hiện nay vẫn chưa thực sự sâu rộng và bền vững. Nhiều doanh nghiệp vẫn chỉ dừng lại ở việc đặt cọc hoặc ký hợp đồng thu mua lúa, chưa thực sự liên kết sâu với nông dân và HTX.
Theo ông Phạm Thái Bình, để liên kết bền vững cần có sự chia sẻ, hỗ trợ từ cả hai phía - doanh nghiệp và HTX, nông dân. Doanh nghiệp cần có vốn để đầu tư, còn HTX, nông dân cần tin tưởng và gắn bó với doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay chỉ có liên kết mới phát triển bền vững ngành hàng, nâng cao thu nhập và tạo ra sức cạnh tranh cho ngành lúa gạo Việt Nam.
"Tôi vẫn kiên trì đeo đuổi một cách tức là dứt khoát phải liên kết với nông dân và HTX, chỉ có con đường này có thể giúp chúng ta phát triển. Chúng ta phải nhìn lại tổng thể một cách tương đối lớn để đưa giá trị của ngành hàng lúa gạo ĐBSCL đi lên một chút", ông Phạm Thái Bình nói.

Một số doanh nghiệp đã chủ động bắt tay cùng HTX xây dựng vùng nguyên liệu quy mô lớn
Trong thực tiễn sản xuất, ngành hàng lúa gạo ở vùng ĐBSCL đã trải qua những biến động thăng, trầm, tình cảnh tranh mua, tranh bán, bẻ kèo giữa thương lái và nông dân, doanh nghiệp đã bộc lộ rõ điểm “nghẽn” trong ngành hàng lúa gạo. Đây chính là minh chứng cho sự thiếu liên kết giữa người dân, HTX, doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, tiêu thụ. Những tác động từ thị trường sẽ ảnh trực tiếp tới các khâu trong sản xuất, điều cho thấy chuỗi liên kết đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, tiêu thụ.
Vì vậy, bài toán hợp tác, liên kết sản xuất giữa người dân, HTX, doanh nghiệp được xem là lời giải cho vựa lúa vùng ĐBSCL, góp phần nâng cao thu nhập, xây dựng thương hiệu, vị thế của ngành hàng lúa gạo Việt Nam trên bản đồ thế giới.