Lỗ hổng quản trị tài nguyên nước
Dù chưa xác định cụ thể nguyên nhân khiến nguồn nước sông Đà cung cấp cho Thủ đô 'có mùi lạ', nhưng những ngày qua, nhiều cư dân đã vô cùng bức xúc và hoang mang.
Ảnh: Baotainguyenmoitruong.vn
Điều đó đang cho thấy, vấn đề quản trị nguồn nước của Hà Nội có vấn đề.
Từ câu chuyện của Hà Nội những ngày qua, mới thấy, những mối đe dọa từ an ninh nguồn nước là hiển hiện.
Khung pháp lý về tài nguyên nước ở Việt Nam đã được xây dựng trong hơn hai thập kỷ qua và dần đạt ở mức độ toàn diện. Nhưng, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, các thể chế còn gặp khó khăn trong giải quyết mức độ căng thẳng đang gia tăng.
Thực tế cũng cho thấy, phần lớn cơ cấu thể chế cho quản lý tài nguyên nước đã được luật quy định rõ ràng. Thế nhưng, để tất cả các bên lợi ích ở cấp ngành và cấp địa phương làm việc cùng nhau còn là một thách thức lớn về phối hợp cả theo chiều ngang và chiều dọc, trong một lĩnh vực liên quan đa ngành và đa thẩm quyền như nước. Quy mô của thách thức này có thể được minh họa qua một phân tích của nhóm Tài nguyên nước 2030: Để giảm mức độ căng thẳng về nước trong một lưu vực, cần có 24 biện pháp từ 7 bộ, 6 hội đồng tỉnh, nhiều TP, nhiều Cty thủy lợi và các Cty tư nhân, cùng hàng triệu nông dân và cư dân TP.
Việt Nam được đánh giá là nước có mức độ ủy quyền đặc biệt cao về trách nhiệm, tài chính và nguồn nhân lực cho chính quyền địa phương. Nhưng năng lực quản lý tài nguyên nước ở các cấp được phân quyền nhưng còn khá yếu, đặc biệt là dưới cấp tỉnh. Một số tỉnh có năng lực lập quy hoạch và quản lý tài nguyên nước, nhưng hầu hết các tỉnh chưa có hướng dẫn chi tiết về phân cấp cho huyện và xã. Ở cấp địa phương, UBND tỉnh và dưới tỉnh là các UBND các huyện chịu trách nhiệm phát triển và quản lý tài nguyên nước cùng các dịch vụ nước và thủy lợi trong phạm vi quyền hạn của họ. Chỉ có những dự án lớn được quản lý trực tiếp bởi các Bộ thì trách nhiệm lớn thuộc phạm vi liên tỉnh. Thế nên, hơn 70% ngân sách thủy lợi, được quản lý bởi các UBND tỉnh chứ không phải Bộ NN&PTNT.
Mặc dù đã có sự phân công trách nhiệm giữa các Bộ, ngành về quản lý tài nguyên nước, song còn chồng chéo về nhiệm vụ và bất cập trong phối hợp giữa các cơ quan. Việc phân quyền trong lập quy hoạch liên quan đến tài nguyên nước đã dẫn đến việc các Bộ, ngành đều xây dựng quy hoạch phát triển chuyên ngành theo yêu cầu của Bộ mình đặt ra. Chẳng hạn, Bộ NN&PTNT xây dựng quy hoạch thủy lợi; Bộ Công Thương xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống thủy điện; Bộ GTVT xây dựng quy hoạch hệ thống giao thông thủy. Việc thiếu phối hợp giữa các ngành dẫn đến những xung đột trong khai thác sử dụng nước, làm gia tăng nguy cơ thiếu nước và ô nhiễm môi trường nước mặt. Còn mâu thuẫn về lợi ích liên quan đến tài nguyên nước như giữa chống lũ với phát điện; giữa phát điện với cấp nước tưới; giữa phát điện với cấp nước cho hạ du, nước sinh hoạt, nước để đẩy mặn cửa sông.
Khung quản trị nước của Việt Nam có mục đích lồng ghép quy hoạch và quản lý ở cấp lưu vực, song thành công trong việc thành lập các tổ chức lưu vực và đảm bảo quy hoạch lưu vực còn hạn chế. Vì vậy, cần tăng cường trao quyền cho các tổ chức này, phân bổ đủ nguồn lực và bảo đảm các tổ chức này đại diện đầy đủ quyền lợi của các bên liên quan.
Có như vậy, các tổ chức này mới thực sự phát huy sức mạnh, nguồn lực và đặc điểm để lập quy hoạch và quản lý tổng hợp lưu vực sông, thúc đẩy cách tiếp cận tổng hợp cho quản lý tài nguyên nước. Còn không, những kiểu “khủng hoảng” kiểu như nguồn nước sông Đà đang diễn ra với Hà Nội vẫn có nguy cơ lặp lại.
Nguồn Xây Dựng: http://www.baoxaydung.com.vn/news/vn/xa-hoi/lo-hong-quan-tri-tai-nguyen-nuoc.html