Hải quân Liên Xô bắt đầu vươn mạnh ra biển lớn vào thập niên 1960, họ triển khai lực lượng tàu chiến triển khai trên khắp các đại dương nhằm cân bằng với hải quân Mỹ. Việc mở rộng lực lượng như vậy đòi hỏi phải có mạng lưới hậu cần kỹ thuật rộng khắp.
Do không có căn cứ quân sự nước ngoài nên Liên Xô đã xây dựng trạm cung ứng vật tư kỹ thuật trên lãnh thổ các nước có mối quan hệ thân thiện trong đó có Việt Nam. Liên Xô đã có ý muốn vào Cam Ranh sau năm 1975.
Cuối năm 1978, Liên Xô và Việt Nam đã thỏa thuận xong và ký biên bản ghi nhớ làm cơ sở đàm phán xây dựng, cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam Ranh.
Ngày 2/5/1979, Chính phủ Liên Xô và Việt Nam đã ký hiệp định về việc sử dụng quân cảng Cam Ranh làm Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật cho Hạm đội Thái Bình Dương trong 25 năm (Trạm cung ứng mang phiên hiệu 922).
Tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào vịnh Cam Ranh. Phân đội đầu tiên của Hạm đội Thái Bình Dương gồm 54 người đã đến quân cảng Cam Ranh vào tháng 4/1980.
Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang của Liên Xô đã giao cho Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 nhiệm vụ giảm áp lực cho Hạm đội Thái Bình Dương nói riêng và Hải quân Liên Xô nói chung trong công tác hậu cần đảm bảo hoạt động chiến hạm đang làm nhiệm vụ tại biển Đông và khu vực Thái Bình Dương.
Trong thời gian sau đó, nhiều tàu chiến của Hải quân Liên Xô đã ghé vào Cam Ranh, trong số đó có tàu ngầm hạt nhân Project 671 RTM Shuka được thiết kế để săn lùng tàu ngầm đối phương.
Tàu ngầm hạt nhân Project 671 RTM có chiều dài 106,1m, rộng 10,6, mớn nước 8m, lượng giãn nước khi lặn lên tới 7.250 tấn. Tàu được vận hành bởi độ ngũ thủy thủ đoàn 102 người.
Tàu ngầm hạt nhân này được trang bị 2 lò phản ứng hạt nhân VM-4 (tổng công suất 144MW) cung cấp năng lượng cho con tàu hoạt động trong khoảng 20 năm trước khi phải thay thế thanh nhiên liệu.
Tàu có thể đạt tốc độ 10 hải lý/giờ khi nổi, và 31 hải lý/giờ khi lặn. Dù có thể lặn sâu tối đa ở mức 400m, tuy vậy tàu thường chỉ lặn ở độ sâu khoảng 320m. Dữ trữ hành trình là 80 ngày.
Project 671 RTM trang bị nhiều hệ thống định vị thủy âm gồm: MGK-500 Skat-2M; Skat-B và Ruza-P. Ngoài ra, tàu còn có hệ thống quản lý thông tin chiến đấu Omnibus và đài radar định vị phát hiện mục tiêu tổng hợp MRK-500 Kaskad.
Về hệ thống vũ khí, Project 671 RTM trang bị 2 ống phóng ngư lôi cỡ 650mm và 4 ống phóng cỡ 533mm cho phép bắn nhiều loại tên lửa chống ngầm và ngư lôi
Một trong những vũ khí mạnh mẽ của tàu là tên lửa hành trình chống ngầm RPK-7 Veter (NATO định danh là SS-N-16) và RPK-2 Viyuga (NATO định danh là SS-N-15) đạt tầm bắn lần lượt 120km và 45km.
Loại tên lửa này chuyên dùng để hủy diệt những chiến hạm săn ngầm của đối phương.
Ngoài ra tàu còn trang bị ngư lôi "siêu khoang" VA-111 Shkval đạt tốc độ nhanh nhất thế giới (370km/h), lắp đầu đạn thuốc nổ nặng 700kg cho phép diệt tàu ngầm chỉ bằng một phát bắn. VA-111 đạt tầm bắn tối đa 11-15km, độ sâu hoạt động 100m.
Tàu cũng được trang bị ngư lôi Type 65-76 thiết kế để chống lại nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ cũng như tàu cỡ lớn đối phương. Loại ngư lôi này đạt tốc độ tối đa 93km/h, lắp đầu đạn thuốc nổ nặng 557kg, tầm bắn xa đến 50km.
Ngư lôi Type 53-65K thiết kế để chống mục tiêu tàu chiến đấu mặt nước, tầm bắn xa đến 19km, tốc độ 83km/h, lắp đầu đạn nặng 307kg.
Với kho vũ khí đồ sộ cùng độ ồn rất thấp khi hoạt động, Project 671 RTM thực sự là “cơn ác mộng” đối với tàu ngầm, tàu mặt nước của Mỹ - phương Tây.
Việt Hùng