[Loạt Megastory] Đồng Nai trong hành trình bảo tồn voi hoang dã (Kỳ 4)



Khu vực châu Á có 55 quốc gia, vùng lãnh thổ với tổng diện tích rừng 670 triệu ha. Trong đó, có 13 quốc gia có Voi châu Á sinh sống, tổng đàn gần 50 ngàn cá thể. Các quốc gia bảo tồn tốt voi hoang dã là Ấn Độ, Thái Lan, Sri Lanka, Việt Nam…
Hiện nay, Ấn Độ là quốc gia có đàn Voi châu Á lớn nhất với hơn 28 ngàn cá thể, Thái Lan hơn 7,5 ngàn cá thể… Theo các nhà khoa học về môi trường thì Voi châu Á đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái rừng nhiệt đới. Voi có tập tính di chuyển rộng, ăn nhiều loại thực vật và phát tán hạt giống nên có thể góp phần vào tái sinh rừng tự nhiên, duy trì, tăng đa dạng sinh học của rừng.

Trong những năm qua, Ấn Độ là quốc gia còn bảo tồn được gần 60% cá thể Voi châu Á. Đàn voi hoang dã của Ấn Độ chủ yếu phân bố ở miền Nam và Đông Bắc. Với quốc gia này, voi được coi là linh vật trong văn hóa Hindu và là biểu trưng của vị thần Ganesha (vị thần đầu voi mình người), biểu tượng của trí tuệ, may mắn và sự thịnh vượng. Từ nền tảng văn hóa, tín ngưỡng trên đã trở thành thế mạnh giúp Ấn Độ triển khai các giải pháp bảo tồn voi nhận được sự đồng thuận sâu rộng trong cộng đồng dân cư.

Lãnh đạo Nhóm Chuyên gia về voi châu Á, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, UBND tỉnh Đồng Nai nhận sách liên quan đến voi hoang dã trong khuôn khổ Tuần lễ Bảo tồn voi năm 2025 tại Đồng Nai. Ảnh: Hoàng Lộc
Từ năm 1972, Ấn Độ đã ban hành Luật Bảo vệ Động vật hoang dã, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc ngăn chặn săn bắt, buôn bán voi và ngà voi. Đặc biệt, năm 1992, Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Ấn Độ đã triển khai Dự án Bảo tồn voi với mục đích là để hỗ trợ các bang về tài chính và kỹ thuật trong quản lý quần thể voi hoang dã châu Á. Trong đó, dự án tập trung vào bảo vệ đàn voi, môi trường sống, thiết lập hành lang di cư cho voi, hỗ trợ người dân sống gần rừng để hạn chế sung đột giữa người và voi.
Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng triển khai các quỹ bồi thường thiệt hại do voi gây ra, giúp người dân không còn coi voi là “kẻ phá hoại mùa màng”. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương phối hợp với tổ chức phi chính phủ tuyên truyền, giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của voi đối với hệ sinh thái rừng.

Nhóm Chuyên gia về voi châu Á đi thực địa tại Vườn Quốc gia Cát Tiên, Đồng Nai tháng 9-2025. Ảnh: Hoàng Lộc
Theo ông Vivek Menon, Chủ tịch Nhóm Chuyên gia về voi châu Á, nhiều năm qua, Ấn Độ đã duy trì được quần thể voi ổn định, từng bước khôi phục các vùng rừng tự nhiên và giảm đáng kể xung đột người - voi. Đây là nhờ sự kết hợp hài hòa giữa chính sách pháp luật về bảo tồn voi và văn hóa, tín ngưỡng của người dân. Từ đó, nâng cao công tác tuyên truyền để cộng đồng dân cư cùng tham gia bảo vệ, chung sống hài hòa giữa người và voi.

Nếu Ấn Độ được biết đến là nơi bảo tồn voi hoang dã tốt nhất châu Á thì Thái Lan lại nổi tiếng với voi thuần dưỡng. Trong đó, có khoảng 3,5 ngàn cá thể voi hoang dã và 4 ngàn voi nuôi. Tại Thái Lan, voi được thấy trong các lễ hội và một số điểm du lịch. Tuy nhiên, để bảo vệ đàn voi hoang dã, voi thuần dưỡng, Chính phủ Thái Lan đã có những chiến lược bảo tồn, hướng đến phát triển du lịch bền vững hơn.

Nhà nước Thái Lan đã ban hành Luật Bảo vệ voi hoang dã cùng các quy định bắt buộc đăng ký, gắn chip điện tử cho voi nuôi nhằm kiểm soát nguồn gốc, sức khỏe và phúc lợi động vật. Các trung tâm bảo tồn như Elephant Nature Park (Chiang Mai) hay Phuket Elephant Sanctuary được xây dựng làm nơi cứu hộ, chăm sóc voi yếu. Đồng thời, Thái Lan đã có thay đổi mang tính bước ngoặt là chuyển đổi mô hình du lịch cưỡi voi sang du lịch quan sát voi trong môi trường tự nhiên. Du khách không còn cưỡi, mà chỉ được tắm, cho ăn hoặc đi bộ cùng voi trong khu bảo tồn. Cách làm này vừa đảm bảo phúc lợi động vật, vừa tạo trải nghiệm gần gũi, thân thiện, mang giá trị giáo dục sâu sắc.
Tiến sĩ Somying Thunhikorn, Chuyên gia về bảo tồn động vật hoang dã của Cục Công viên quốc gia Động vật hoang dã và Bảo tồn thực vật Thái Lan cho hay: “Thái Lan đã bảo tồn voi khá thành công nhờ thực hiện kịp thời các giải pháp khoa học và có tham gia của người dân địa phương nên giảm thiểu được những xung đột giữa voi và người. Đồng thời, Thái Lan tập trung bảo vệ, phục hồi các khu vực sống tự nhiên và phát triển mô hình du lịch voi phù hợp với công tác bảo tồn”.

Loài voi châu Á ở nước ngoài được giới thiệu tại triển lãm ảnh Tuần lễ Bảo tồn voi năm 2025 ở Đồng Nai. Ảnh: Hoàng Lộc
Ngoài ra, Chính phủ Thái Lan cũng ban hành nhiều chính sách pháp lý kịp thời, đảm bảo sự chung sống hòa bình giữa người và voi. Trong đó, kết hợp bảo tồn voi với sinh kế cho người dân ở gần những khu vực có voi sinh sống. Cụ thể, người dân địa phương có thể tham gia chăm sóc, hướng dẫn du khách, bán sản phẩm thủ công và nông sản để có thêm thu nhập đảm bảo đời sống. Cách làm này đã giúp người dân có được lợi ích từ việc chăm sóc, bảo vệ voi và rừng. Đây là giải pháp bảo tồn, phát triển đàn voi bền vững.

Tuy Ấn Độ, Thái Lan đều có mô hình bảo tồn voi khác nhau nhưng kết quả là đều bảo vệ đàn voi khá tốt. Đồng thời, cả hai quốc gia trên đều có điểm chung quan trọng nhất là coi bảo tồn voi là trách nhiệm của toàn xã hội, chứ không riêng cơ quan quản lý. Bên cạnh đó, Ấn Độ và Thái Lan đều xây dựng chính sách từ sớm, rõ ràng, trong đó rất chú trọng công tác bảo tồn voi với sinh kế bền vững, văn hóa, tín ngưỡng và du lịch sinh thái.

Rừng ở Đồng Nai có đa dạng sinh học thuộc hàng cao nhất khu vực Đông Nam Bộ. Ảnh: Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai
Nếu Ấn Độ thành công trong bảo tồn voi hoang dã và bảo vệ hành lang di cư, thì Thái Lan lại nổi bật với cách tiếp cận nhân văn đối với voi nuôi và du lịch sinh thái thân thiện. Điểm nổi bật là cả hai nước trên đều kết hợp hài hòa giữa chính sách quản lý của nhà nước, vai trò cộng đồng, sự hỗ trợ quốc tế, từ đó, tạo nên mạng lưới bảo tồn voi hiệu quả hơn và giảm được xung đột giữa người và voi.

Voi rừng tại Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai. Ảnh tư liệu
Hiện nay, tại Việt Nam, nơi số lượng voi hoang dã còn gần 200 cá thể, phân bố rải rác ở Đồng Nai, Đắk Lắk, Nghệ An…Từ nhiều năm trước, Việt Nam đã rất quan tâm đến công tác bảo tồn voi và động, thực vật hoang dã khác để góp phần vào phát triển đa dạng sinh học, duy trì sự cân bằng bền vững của hệ sinh thái tự và làm chậm lại quá trình của biến đổi khí hậu. Việt Nam cũng rất chú trọng học hỏi kinh nghiệm, liên kết với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong công tác bảo tồn voi và động, thực vật hoang dã.
Theo Tiến sĩ Đoàn Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong thời gian qua, Cục đã phối hợp với Tổ chức Thế giới Nhân đạo vì Động vật (Humane World for Animals) hỗ trợ kỹ thuật, tài chính cho nhiều hoạt động bảo tồn voi tại 5 tỉnh có voi ở Việt Nam. Cục cùng các nhà nghiên cứu trong nước và chuyên gia quốc tế xây dựng chiến lược quản lý và bảo tồn voi dựa trên hiểu biết khoa học, nguồn lực sẵn có và điều kiện thực tiễn của từng địa phương.

Kiểm lâm đi kiểm tra hàng rào điện tử để bảo vệ voi hoang dã tại Vườn Quốc gia Cát Tiên (xã Tà Lài, tỉnh Đồng Nai). Ảnh: Khánh Minh
Những năm gần đây, Việt Nam tăng cường quản lý và bảo vệ sinh cảnh rừng, thiết lập hành lang di cư giữa các khu bảo tồn. Phát triển cơ chế bồi thường thiệt hại do voi gây ra, giảm xung đột với người dân. Đồng thời, phát huy yếu tố văn hóa - du lịch, biến bảo tồn voi thành sản phẩm du lịch sinh thái đặc trưng của địa phương. Tăng cường truyền thông và giáo dục cộng đồng, xây dựng hình ảnh voi như biểu tượng văn hóa cần được trân trọng. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, học hỏi mô hình bảo tồn, cứu hộ và chăm sóc voi từ các nước trong khu vực. Hành trình bảo tồn voi không chỉ là câu chuyện của một loài vật quý hiếm, mà còn là thước đo cho sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Đó cũng là con đường Việt Nam cần kiên định đi theo để “voi còn mãi với đại ngàn”, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường cho tương lai.
















