Lợi ích lớn từ phát triển vận tải thủy nội địa ven biển bền vững, an toàn

Với lợi thế về sự linh hoạt, chi phí đóng mới thấp, cước vận tải chỉ bằng ¼ so với đường bộ nên thời gian qua phương tiện vận tải thủy ven biển phát triển rất nhanh, đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp và chủ hàng.

Một tàu SB đang xếp hàng tại cảng.

Một tàu SB đang xếp hàng tại cảng.

Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài trên 3.260 km, đồng thời có hệ thống sông, kênh dày đặc, bao gồm 2.360 con sông, kênh có tổng chiều dài khoảng 41.900 km, trong đó hơn 17.000 km có thể khai thác vận tải thủy, với trên 120 cửa sông đổ ra biển (mật độ sông, kênh đứng thứ 4 thế giới, chỉ số biển cao gấp 6 lần trung bình toàn cầu) với hơn 50% dân số sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển.

Với những đặc điểm trên, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có lợi thế và tiềm năng to lớn để phát triển GTVT ven biển.

Chủ trương đúng đắn

Tiến sỹ Bùi Thiên Thu hiện là Giáo sư Đại học Okayama (Nhật Bản); Phó Cục trưởng Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam; Thành viên Hội đồng trường Đại học Hàng hải Việt Nam; Phó chủ tịch Hội Cảng - Đường thủy - Thềm lục địa Việt Nam; nguyên Phó cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam.

Thực hiện chủ trương của Bộ GTVT (nay là Bộ Xây dựng) về phát triển giao thông vận tải ven biển bằng phương tiện thủy nội địa góp phần giảm tải cho tuyến đường bộ, năm 2014 Cục Đường thủy nội địa Việt Nam phối hợp với Cục Hàng hải Việt Nam (kể từ tháng 3/2025 hai đơn vị này đã hợp nhất thành Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam) và Cục Đăng kiểm Việt Nam tham mưu Bộ Giao thông vận tải ban hành các Quyết định công bố tuyến vận tải ven biển từ Quảng Ninh đến Quảng Bình, từ Quảng Bình đến Bình Thuận và từ Bình Thuận đến Kiên Giang.

Đây chính là khuôn khổ pháp lý thuận lợi để phương tiện thủy nội địa mang cấp VR-SB (tàu SB) được hoạt động trên toàn tuyến vận tải ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang (trong vùng nội thủy của Việt Nam).

Theo các doanh nghiệp vận tải ven biển, với lợi thế về chi phí đóng mới (thấp hơn 10-15% so với tàu biển) và cước vận tải tàu SB tuyến Hải Phòng – Đồng bằng sông Cửu Long chỉ bằng khoảng 1/4 so với đường bộ nên lượng hàng hóa nhanh chóng chuyển từ đường bộ sang tàu SB, trực tiếp kéo giảm chi phí vận tải tuyến Bắc - Trung - Nam đồng thời góp phần giảm tải cho tuyến đường bộ.

Kể từ khi triển khai tuyến vận tải ven biển đến hết năm 2024, đã có hơn 450.000 lượt tàu sông pha biển vào, rời các cảng, bến thủy nội địa, cảng biển, với tổng khối lượng vận chuyển đạt gần 550 triệu tấn, bình quân đạt gần 4,5 triệu tấn/tháng (tương đương khoảng 150.000 xe ô tô chở hàng hạng nặng loại 30 tấn/xe); tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 38%/năm.

Riêng năm 2024, đã có gần 94.000 lượt tàu sông pha biển vào, rời các cảng, bến thủy nội địa, cảng biển với hơn 96 triệu tấn hàng thông qua; so với năm 2015, tăng gấp 12 lần về số lượt phương tiện vào, rời cảng, bến và tăng gấp 13 lần về khối lượng hàng hóa vận chuyển.

Về đội tàu, tính đến tháng 3/2025, cả nước đã có 3.185 phương tiện VR-SB được đăng kiểm, trong đó 1.428 phương tiện chở hàng, với tổng trọng tải 3.875.305 tấn, 724 phương tiện chở khách với tổng sức chở 34.108 khách và 1.033 phương tiện khác như tàu cần cẩu, tàu hút, tàu cuốc, tàu kéo, đẩy.

Trong số 1.428 phương tiện VR-SB chở hàng (1.011 phương tiện chở hàng khô, phương tiện 222 chở hàng lỏng, phương tiện 51 chở container), có 28 phương tiện từ 20.000 tấn trở lên, 31 phương tiện từ 10.000 đến dưới 20.000 tấn, 72 phương tiện từ 5.000 đến dưới 10.000 tấn, 1.297 phương tiện dưới 5.000 tấn).

Nguồn nhân lực được đào tạo và được cấp chứng chỉ điều khiển phương tiện đi ven biển và chứng chỉ an toàn ven biển là 30.969 chứng chỉ; trong đó, chứng chỉ điều khiển phương tiện đi ven biển là 6.691 chứng chỉ, chứng chỉ an toàn ven biển là 24.273 chứng chỉ.

Tàu SB thực hiện trung chuyển hàng hóa tại bến phao hàng hải.

Tàu SB thực hiện trung chuyển hàng hóa tại bến phao hàng hải.

Những tồn tại cần hoàn thiện

Mặc dù vận tải ven biển bằng phương tiện VR-SB đạt hiệu quả rất tích cực, nhưng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:

Thứ nhất, về công tác quản lý nhà nước còn một số tồn tại chính, gồm thể chế, pháp luật về phương tiện và hoạt động vận tải của phương tiện VR-SB còn thiếu, chưa đồng bộ.

Công tác quản lý đối với hoạt động của phương tiện VR-SB đang chồng chéo, thiếu thống nhất khi hiện đang có tới 3 cơ quan thực hiện cấp giấy vào, rời cảng, bến và thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật (Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ Đường thủy nội địa thuộc Cục và Cảng vụ Đường thủy nội địa thuộc Sở Xây dựng/GTVT) nhưng chưa có cơ quan làm đầu mối thống nhất quản lý, kết nối các dữ liệu cũng như minh bạch số liệu để các cơ quan quản lý nhà nước cùng khai thác và quản lý.

Chưa có cơ sở dữ liệu trực tuyến về Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện VR-SB cũng như giấy chứng nhận của thuyền viên.

Chưa có quy định về thẩm quyền hạn chế tốc độ của phương tiện VR-SB, quy định về vận tải hành khách bằng phương tiện VR-SB trong điều kiện tầm nhìn xa hạn chế (vụ chìm ca nô VR-SB tuyến Cửa Đại – Cù Lao Chàm, phương tiện chạy với tốc độ cao trong điều kiện tầm nhìn hạn chế đã xảy ra tai nạn làm chết 17 người).

Thứ hai, về an toàn kỹ thuật của phương tiện VR-SB cũng còn một số tồn tại như: quy định về kết cấu, hệ thống động lực, trị số mạn khô tối thiểu, trang thiết bị an toàn, trang thiết bị hàng hải, vô tuyến điện, ngăn ngừa ô nhiễm, kết cấu nắp khoang hàng... chưa thực sự đảm bảo an toàn cho phương tiện khi hoạt động trên biển.

Thiếu quy định về việc bảo trì, bảo dưỡng các trang thiết bị cứu sinh, cứu hỏa; loại hàng hóa cụ thể được phép chuyên chở, sổ tay hướng dẫn chằng buộc hàng hóa, hướng dẫn xếp, dỡ hàng cho phương tiện VR-SB.

Chưa có các quy định: về danh mục giấy chứng nhận và tài liệu hướng dẫn phải mang theo trên phương tiện VR-SB; về phương tiện VR-SB phải có tài liệu “bản hướng dẫn xếp và dỡ hàng”.

Phương tiện VR-SB được phân loại theo công suất máy chính, trong khi tàu biển được phân loại theo chiều dài tàu, các quy định này có sự khác biệt về số lượng đèn hành hải (ví dụ: tàu biển quy định tàu có chiều dài trên 50m phải được trang bị 2 đèn cột trong khi đó đối với phương tiện VR-SB số đèn là 1) gây khó khăn trong việc xác định tình huống khi điều động tránh va trên biển.

Hiện nay, tàu biển phải tuân thủ theo các các quy tắc giao thông, tín hiệu đã được quy định tại Công ước quốc tế về phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển. Tuy nhiên, phương tiện VR-SB hoạt động trên biển thực hiện quy tắc tránh va, tín hiệu theo quy định của Luật Giao thông đường thủy nội địa.

Thứ ba, Chương trình đào tạo, bổ túc chuyên môn và cấp chứng chỉ chuyên môn cho thuyền viên, người điều khiển phương tiện thủy nội địa đã được sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao khả năng đi biển của thuyền viên nhưng chất lượng thuyền viên vẫn chưa tương xứng với yêu cầu thực tế nhất là khi phương tiện này hoạt động trên tuyến ven biển.

Bên cạnh đó, hoạt động thực tập, diễn tập cứu sinh, cứu hỏa của thuyền viên làm việc trên phương tiện VR-SB chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục.

Nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế nói trên là do quy định của pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ.

Cụ thể là một số quy định về quy tắc tránh va, tín hiệu của phương tiện theo quy định tại Luật Giao thông đường thủy nội địa chưa tương thích với quy định tại các công ước quốc tế về hàng hải. Chưa có quy định riêng về tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật cho phương tiện VR-SB trong quy phạm phân cấp và đóng phương tiện thủy nội địa.

Công tác quản lý nhà nước còn chồng chéo, chưa hoàn thiện do hiện nay tất cả chủ phương tiện VR-SB thực hiện đăng ký phương tiện tại Sở GTVT, trong khi chưa có cơ sở dữ liệu trực tuyến về phương tiện thủy nội địa nên rất khó khăn trong việc tổng hợp, tra cứu, kiểm tra, phân tích phục vụ công tác quản lý phương tiện VR-SB.

Chưa hoàn thiện hệ thống tra cứu dữ liệu về thuyền viên, phương tiện để tra cứu, phục vụ công quản lý thuyền viên, phương tiện mang cấp VR-SB.

Công tác cấp phép phương tiện VR-SB vào, rời cảng, bến được thực hiện bởi 3 cơ quan là cảng vụ đường thủy nội địa thuộc Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cảng vụ Hàng hải và Cảng vụ đường thủy nội địa thuộc các Sở Xây dựng/GTVT.

Tăng cường công tác quản lý, nâng cao tiêu chuẩn an toàn phương tiện

Để tăng cường công tác quản lý, tiếp tục phát triển hoạt động vận tải ven biển bằng phương tiện sông pha biển theo hướng bền vững, an toàn; đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp vận tải. Thời gian tới, cơ quan quản ly nhà nước cần thiết triển khai đồng bộ, hiệu quả với 2 nhóm giải pháp chính.

Một là, tổ chức triển khai nhóm giải pháp về hoàn thiện thể chế, pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật quy định về phương tiện và hoạt động vận tải của phương tiện VR-SB.

Theo đó, trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hàng hải Việt Nam và Luật Giao thông đường thủy nội địa và các văn bản liên quan, cần bổ sung các quy định nhằm nâng cao các quy định về an toàn kỹ thuật, bảo vệ môi trường, điều kiện hoạt động của phương tiện, trách nhiệm của thuyền viên, định biên an toàn tối thiểu, quy tắc giao thông, hoàn thiện cơ sở dữ liệu dùng chung... đối với phương tiện VR-SB đảm bảo phù hợp với điều kiện thời tiết và tương thích với các quy định của quốc tế khi phương tiện hoạt động trên biển.

Đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ quan liên quan để thống nhất trong quản lý, không chồng chéo, tạo thuận lợi trong hoạt động vận tải trên tuyến vận tải ven biển bằng phương tiện VR-SB.

Hai là, khẩn trương triển khai nhóm giải pháp tăng cường công tác quản lý. Theo đó, trong khi chờ sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, để tăng cường công tác quản lý nhà nước, bảo đảm an toàn, an ninh và phòng ngừa ô nhiễm môi trường đối với phương tiện mang cấp VR-SB các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường kiểm tra, nâng cao trách nhiệm của cơ sở đào tạo trong công tác đào tạo, kiểm tra, sát hạch, cấp giấy chứng nhận khả năng chuyên môn, chứng chỉ chuyên môn đảm bảo đầu ra thuyền viên điều khiển và làm việc trên phương tiện VR-S.

Bên cạnh đó, các Cảng vụ Đường thủy nội địa cần rà soát, hoàn thiện để thực hiện quy trình kiểm tra, giám sát an toàn phương tiện VR-SB đảm bảo chặt chẽ, không cấp phép vào, rời cảng, bến đối với phương tiện, thuyền viên không đảm bảo điều kiện an toàn hoạt động, hoặc khi điều kiện thời tiết không đảm bảo.

Phát triển vận tải ven biển là chủ chương đúng đắn của ngành xây dựng nằm thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 37/CT-TTg ngày 29/9/2020 về thúc đẩy phát triển vận tải thủy nội địa và vận tải ven biển bằng phương tiện thủy nội địa.

Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện, hoạt động vận tải ven biển đạt được hiệu quả rất tích cực, góp phần giảm tải cho hệ thống đường bộ trên trục Bắc Nam, giảm thiểu tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường.

Tuy vậy, để hoạt động vận tải ven biển phát triển bền vững, cần khẩn trương hoàn thiện thể chế để nâng cao an toàn kỹ thuật của phương tiện, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng đi biển của thuyền viên hoạt động trên phương tiện VR-SB.

Bùi Thiên Thu

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/loi-ich-lon-tu-phat-trien-van-tai-thuy-noi-dia-ven-bien-ben-vung-an-toan-d258904.html