Lớp học xóa mù chữ mở ra cánh cửa tiếp cận kiến thức cho đồng bào vùng biên giới Sơn La
Việc dạy xóa mù chữ và trang bị các kỹ năng đọc - viết - tính toán đã tạo ra nhiều chuyển biến rõ nét trong đời sống người dân.
Có thể nói, công tác xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ đơn thuần là dạy họ biết đọc, biết viết, mà còn giúp mở ra cánh cửa tiếp cận tri thức, chính sách và cơ hội phát triển sinh kế. Những lớp học giản dị giữa núi rừng đã trở thành "điểm sáng" trong hành trình nâng cao dân trí, giúp bà con chủ động hơn trong tiếp nhận thông tin, sử dụng dịch vụ công và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
Từ những con chữ "đầu đời" ấy, nhiều người dân đã từng bước thay đổi tư duy, cải thiện cuộc sống, góp phần tạo chuyển biến tích cực trong công cuộc giảm nghèo bền vững.
Thiếu tá Lò Văn Thoại (Đồn Biên phòng Mường Lèo, Sơn La) là người có nhiều dấu ấn trong công tác xóa mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Câu chuyện của Thiếu tá Thoại được chia sẻ tại hội thảo "Giao lưu, chia sẻ, tôn vinh điển hình tiên tiến trong công tác xóa mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số" do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đầu tháng 12/2025.
Hành trình 20 năm dạy xóa mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thiếu tá Lò Văn Thoại chia sẻ, anh nhập ngũ tháng 03/2002 sau đó đi học và ở lại phục vụ lâu dài trong quân đội. Trong quá trình công tác anh cũng được điều động tới ở nhiều đơn vị; được cấp ủy, chỉ huy đơn vị tin tưởng, giao nhiệm vụ tham gia các lớp giảng dạy "xóa mù chữ".
Từ năm 2003 đến nay, hơn 20 năm trong quân ngũ đồng thời cũng là hơn 20 năm anh đã trực tiếp giảng dạy được 12 lớp học xóa mù chữ, với khoảng 300 học viên ở địa bàn các bản vùng cao biên giới huyện Sốp Cộp (cũ) của tỉnh Sơn La.

"Thầy giáo quân hàm xanh" Lò Văn Thoại. Ảnh: NVCC.
"Công tác xóa mù chữ giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với vùng đồng bào khó khăn. Khi người dân biết đọc, biết viết, họ có khả năng tiếp cận tri thức, nắm bắt kịp thời thông tin về các chương trình, chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước. Đây cũng là điều kiện để người dân tiếp thu kỹ thuật sản xuất, ứng dụng khoa học - công nghệ vào canh tác, chăn nuôi; hiểu và làm theo hướng dẫn vận hành máy móc, quy trình kỹ thuật, quy chuẩn an toàn. Nhờ đó, năng suất lao động được cải thiện, sinh kế bền vững hơn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo chuyển biến rõ rệt trong công cuộc giảm nghèo", Thiếu tá Lò Văn Thoại nhìn nhận.
Theo Thiếu tá Lò Văn Thoại, việc dạy xóa mù chữ và trang bị các kỹ năng đọc - viết - tính toán đã tạo ra nhiều chuyển biến rõ nét trong đời sống người dân, góp phần tuyên truyền thông tin một cách có hiệu quả.
Thứ nhất, người dân có cơ hội tiếp cận để hiểu chính sách một cách trực tiếp và đầy đủ hơn. Khi biết chữ, họ có thể tự đọc văn bản, thông báo, tờ rơi hướng dẫn về các chủ trương, chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, không còn phụ thuộc vào người khác truyền đạt lại.
Thứ hai, khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ công được cải thiện rõ rệt. Kỹ năng đọc - viết giúp người dân tự điền các biểu mẫu, giấy tờ khi làm thủ tục hành chính như khai sinh, căn cước công dân, thủ tục liên quan đến đất đai… Điều này giúp họ chủ động hơn, giảm thời gian đi lại và hạn chế tính phụ thuộc.
Thứ ba, việc tiếp nhận thông tin khoa học kỹ thuật trở nên thuận lợi hơn. Người dân có thể đọc tài liệu, tìm hiểu kiến thức, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt, phòng trừ sâu bệnh…, từ đó nâng cao hiệu quả lao động và cải thiện sinh kế.
Từ góc độ thực tiễn, Thiếu tá Thoại cho rằng, xóa mù chữ đã góp phần tích cực thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong việc tham gia các mô hình sinh kế, sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi. Từ đó, họ có thể thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các khóa đào tạo nghề ngắn hạn tại địa phương
Thiếu tá lý giải: "Khi bà con thoát mù chữ, họ có thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các khóa đào tạo nghề ngắn hạn tại địa phương. Họ có cơ hội tiếp cận được những kiến thức được đào tạo như: kỹ năng sử dụng thành tạo máy móc, tra cứu thông tin trên các nền tảng mạng xã hội cũng như tuân thủ các quy trình kỹ thuật trong sản xuất, chăn nuôi từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả kinh tế.
Một số kinh nghiệm trong dạy xóa mù chữ
Theo chia sẻ của Thiếu tá Lò Văn Thoại, giảng dạy các lớp học xóa mù chữ có rất nhiều điều đặc biệt. Ở những lớp này, thành phần học viên rất đa dạng, có cả người lớn tuổi, có cả các cháu thanh thiếu niên, thậm chí cả những cháu bé sơ sinh cũng lên theo bố mẹ đi học… nhưng nhìn chung họ đều là người nghèo, người dân tộc thiểu số, người yếu thế.
Về ngôn ngữ lớp học cũng rất đặc biệt, nhiều người không biết, không thể giao tiếp bằng tiếng phổ thông. Thời gian học tập hết sức linh hoạt, có thể buổi tối nếu vào ngày mùa, có thể ban ngày nếu vào ngày mưa. Đáng chú ý, lớp học cũng có địa điểm linh hoạt, khi thì nhà văn hóa bản, khi thì mượn lớp học của các trường… Quy định của lớp học cũng hoàn toàn tự nguyện, không thể ép buộc.
"Bản thân tôi không được đào tạo về kỹ năng sư phạm. Đồng thời, để thích ứng, vượt qua rào cản về ngôn ngữ, tôi cũng phải học thêm tiếng Mông từ chính những học viên của mình, để có thể giao tiếp, giảng dạy, cũng tạo sự gần gũi giữa người dạy và người học. Hơn nữa, phải đưa nội dung học trở về những vấn đề hết sức đời thường, phải sử dụng học cụ là những bắp ngô, quả bí, có khi là hình ảnh các vật dụng, hoạt động", Thiếu tá Lò Văn Thoại bộc bạch.
Theo "thầy giáo quân hàm xanh", trong quá trình vận động học viên đến lớp xóa mù chữ, khó khăn lớn nhất không nằm ở chuyện đường sá xa xôi mà ở "khoảng cách tâm lý". Bởi mỗi học viên của lớp học xóa mù chữ đều có một hoàn cảnh, một trang đời rất đặc biệt, nhưng làm thế nào để họ xóa bỏ mặc cảm, khơi dậy nhu cầu học chữ đó lại là những câu chuyện dài. Theo anh, để họ mạnh dạn đến lớp, người dạy và người trực tiếp vận động phải thật sự bền bỉ, thấu hiểu và đồng hành, từ lúc gõ cửa từng nhà vận động đến suốt quá trình học tập.

Về kinh nghiệm giảng dạy, anh cho rằng điều quan trọng nhất là giáo viên phải biết tiếng dân tộc, hiểu phong tục, nếp sống của bà con để bài giảng trở nên gần gũi, dễ tiếp nhận. Nội dung lên lớp cần được "đời thường hóa", dạy những điều thiết thực nhất trong giao tiếp hằng ngày, từ cách đọc biển báo, điền thông tin vào giấy tờ đến những phép tính gắn với sản xuất, mua bán. Khi bài học chạm được nhu cầu thật của người học, họ sẽ thấy "học chữ" không còn là áp lực, mà là công cụ giúp cuộc sống tốt hơn mỗi ngày.
Kỳ vọng nhân rộng mô hình "lớp học xóa mù chữ" gắn với mục tiêu giảm nghèo bền vững
Để nhân rộng mô hình "lớp học xóa mù chữ" gắn với mục tiêu giảm nghèo bền vững, theo Thiếu tá Lò Văn Thoại cần có thêm những chính sách hỗ trợ thiết thực bên cạnh các chế độ đã và đang triển khai.
Theo đó, đối với người dạy, cần có cơ chế hỗ trợ phương tiện đi lại, trang thiết bị, học cụ phục vụ giảng dạy phù hợp, đa dạng, có tính thực tế cao; bổ sung các bộ tài liệu trực quan, mô hình thực hành để bài giảng sinh động, dễ hiểu. Đồng thời, nên xây dựng các mô hình "Học viên làm kinh tế giỏi" để giáo viên có thêm ví dụ thực tế, giúp học viên học đi đôi với làm, tích lũy kinh nghiệm sản xuất.
Đối với người học, cần có chính sách hỗ trợ học tập (như tài liệu, đồ dùng học tập, hỗ trợ đi lại…), tạo điều kiện để bà con yên tâm đến lớp; đồng thời gắn đào tạo với nhu cầu sản xuất ở địa phương để việc học trở nên thiết thực, hữu ích trong đời sống hằng ngày.
Để việc xóa mù chữ thực sự trở thành "chìa khóa mở cánh cửa" phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, theo tôi, chương trình dạy học cần kết hợp giữa kiến thức cơ bản (đọc, viết, tính toán) với kỹ năng sống, kỹ năng sản xuất, hiểu biết pháp luật và văn hóa của từng vùng. Các lớp học phải phù hợp phong tục tập quán, ngôn ngữ; giáo viên biết tiếng dân tộc sẽ giúp tạo không khí gần gũi, thực hiện hiệu quả phương châm "bốn cùng": cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng đồng bào.
Quan trọng hơn, chương trình dạy cần gắn với phát triển kinh tế hộ gia đình, giúp người dân biến tri thức thành công cụ tạo thu nhập. Khi kiến thức học được mang lại giá trị thiết thực, người dân sẽ chủ động thay đổi tư duy, nâng cao kỹ năng, từng bước cải thiện cuộc sống và thoát nghèo bền vững.
Nhiều học viên của tôi từ việc không biết chữ, biết số, không thể viết tên, không biết sử dụng điện thoại thì các học viên hiện nay đã biết đọc, biết viết, biết sử dụng điện thoại thông minh. Từ việc phải đi hàng chục cây số để nhờ người thân hỗ trợ, thì nay, bà con đã có thể sử dụng điện thoại để liên lạc nhanh chóng hơn. Bà con nhân dân dần nhận thức được rằng, việc học chữ không chỉ giúp bà con đọc được chữ, biết được số mà còn giúp ích rất nhiều trong cuộc sống thường ngày như: chăm sóc sức khỏe gia đình, hiểu biết kiến thức về chăn nuôi, làm kinh tế và tự tin hơn khi giao tiếp. Đồng thời bà con cũng đã quan tâm hơn tới việc học hành của con cái.
Đối với tôi danh hiệu "thầy giáo quân hàm xanh", "thầy giáo"… mà nhân dân trao tặng, xưng hô với tôi là những danh xưng hết sức cao quý, cũng là động lực để tôi vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và thêm gắn bó với bà con vùng biên cương Tây Bắc.
Thiếu tá Lò Văn Thoại












