Luật Cư trú sửa đổi: Làm rõ quy định cư trú của người chưa thành niên
Dự thảo sửa đổi Luật Cư trú làm rõ hơn quyền xác lập nơi cư trú của người chưa thành niên; thông báo lưu trú đối với người quản lý phương tiện...
Vừa qua, Bộ Tư pháp đã công bố tài liệu họp rà soát dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật liên quan đến an ninh, trật tự, trong đó có Luật Cư trú.
Dự thảo tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn trong thực tiễn thi hành, đặc biệt ở nhóm quy định về nơi cư trú, điều kiện đăng ký thường trú và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.

Dự thảo sửa đổi Luật Cư trú bổ sung nhiều quy định mới. Ảnh minh họa: HUỲNH THƠ
Đăng ký cư trú cho người chưa thành niên
Một trong những nội dung quan trọng là việc sửa đổi quy định về cư trú của người chưa thành niên. Dự thảo bổ sung quy định tại khoản 11 Điều 7, cho phép giải quyết đăng ký thường trú, tạm trú cho trẻ dưới 6 tuổi về với cha, mẹ hoặc người giám hộ, ngay cả khi thực tế trẻ không sinh sống tại chỗ ở đó.
Đồng thời, sửa khoản 2 Điều 12 theo hướng nới lỏng: Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với cha mẹ nếu chỉ cần cha hoặc mẹ đồng ý, thay vì phải có sự đồng ý của cả hai như hiện hành.
Dự thảo sửa đổi Luật Cư trú cũng chỉnh lý lớn tại khoản 2 Điều 20. Theo đó, trẻ dưới 6 tuổi được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc sở hữu của mình khi về với cha, mẹ hoặc người giám hộ. Các trường hợp khác muốn đăng ký vào chỗ ở không thuộc sở hữu bắt buộc phải có sự đồng ý của chủ hộ và chủ sở hữu.
Quy định mới bổ sung thêm các đối tượng như người từ đủ 6 tuổi trở lên có giám hộ, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người khó khăn trong nhận thức, thay vì chỉ quy định chung “con về ở với cha mẹ” như trước.
Tương ứng với thay đổi về đối tượng, hồ sơ đăng ký thường trú cũng được điều chỉnh. Dự thảo bổ sung tờ khai riêng cho trẻ dưới 6 tuổi đăng ký về ở với cha, mẹ hoặc người giám hộ, thay vì sử dụng một loại tờ khai chung như hiện hành.
Đồng thời, bỏ yêu cầu trong tờ khai của người chưa thành niên phải có ý kiến đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ (trong khi luật đang áp dụng đã yêu cầu văn bản đồng ý này ở bước trước đó).
Dự thảo cũng bổ sung quy định trường hợp người chưa thành niên về ở với cha, mẹ hoặc giám hộ thì không phải có ý kiến đồng ý của chủ hộ hoặc chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp.
Thông báo lưu trú về người quản lý phương tiện
Về quản lý thông tin cư trú, dự thảo đưa ra thay đổi đáng kể nhằm giảm thủ tục hành chính. Khi công dân thay đổi thông tin về hộ tịch so với thông tin đã được lưu trữ trong CSDL về cư trú sẽ được cập nhật từ CSDL quốc gia về dân cư cho CSDL về cư trú, công dân không cần nộp hồ sơ điều chỉnh như quy định hiện hành.
Ngoài ra, đối với trách nhiệm của cơ quan đăng ký cư trú theo dự thảo ngoài việc cập nhật thông tin về cư trú của công dân vào CSDL quốc gia về dân cư, CSDL về cư trú, cơ quan phải tiếp nhận phản hồi của người dân về việc thông tin sai lệch, phối hợp với cơ quan có liên quan xác minh, kịp thời cập nhật, điều chỉnh thông tin công dân.
Dự thảo cũng bổ sung trường hợp xóa đăng ký thường trú, tạm trú đối với người bị hủy quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, nhằm thống nhất với Luật Quốc tịch sửa đổi.
Ngoài ra, quy định về thông báo lưu trú được mở rộng, khi có người lưu trú qua đêm, thành viên hộ gia đình, người đại diện cơ sở chữa bệnh, cơ sở lưu trú du lịch, chủ sở hữu hoặc người được giao quản lý phương tiện... quy định hiện hành không yêu cầu thông báo lưu trú đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý phương tiện nên dự thảo điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn.
Một thay đổi đáng chú ý khác là cơ chế khai báo tạm vắng. Công dân thuộc diện phải khai báo có thể thực hiện qua Cổng dịch vụ công quốc gia hoặc ứng dụng định danh quốc gia, thay vì phải đến trực tiếp cơ quan như hiện nay.
Người khai báo cũng không cần nộp văn bản đồng ý của cơ quan giám sát, quản lý, giáo dục; thay vào đó, cơ quan đăng ký cư trú sẽ chủ động trao đổi và xác minh với cơ quan có thẩm quyền.
Dự thảo sửa đổi Luật Cư trú cũng thực hiện một số chỉnh lý kỹ thuật như thay thế từ “thị trấn” bằng “đặc khu”, “huyện” bằng “xã”; đồng thời bỏ các cụm từ như “số Chứng minh nhân dân”… để phù hợp mô hình chính quyền địa phương hai cấp và thống nhất với việc bãi bỏ các loại giấy tờ cũ.











