Luật sư phân tích góc độ pháp lý vụ bé gái ở Hải Phòng bị bắt cóc

'Hành vi của đối tượng bắt cóc không những gây hoang mang lo lắng cho gia đình về sự an toàn của cháu bé, mà còn gây mất trật tự an ninh trên địa bàn, cần phải xử lý nghiêm', Luật sư Nguyễn Anh Thơm (Trưởng Văn phòng Luật sư Nguyễn Anh, Đoàn Luật sư TP Hà Nội) nhấn mạnh.

Dư luận cho rằng, ngoài việc truy cứu trách nhiệm đối với kẻ lạ mặt, cơ quan chức năng cần xem xét trách nhiệm đối với phía Trường mầm non Thiên Hương (Hải Phòng). Ảnh cắt từ clip trên mạng.

Dư luận cho rằng, ngoài việc truy cứu trách nhiệm đối với kẻ lạ mặt, cơ quan chức năng cần xem xét trách nhiệm đối với phía Trường mầm non Thiên Hương (Hải Phòng). Ảnh cắt từ clip trên mạng.

Mấy ngày qua, vụ bé gái học ở Trường mầm non Thiên Hương (Hải Phòng) bị bắt cóc khiến dư luận xôn xao, lo lắng.

Chiều 14/1, sau một ngày bị người phụ nữ lạ mặt đưa ra khỏi Trường mầm non Thiên Hương, bé gái N.T.M 4 tuổi đã được tìm thấy ở khu vực đường Lương Khánh Thiện, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.
Công an xác định, người đưa bé gái ra khỏi trường là Đồng Thị Thu, 18 tuổi, phường Hoàng Lâm, TP Thủy Nguyên, Hải Phòng.

Trong sự việc này, may mắn cháu bé đã được cơ quan chức năng tìm thấy, an toàn, sức khỏe ổn định. Tuy nhiên, cơ quan chức năng sẽ làm rõ nguyên nhân, động cơ, mục đích của người phụ nữ dẫn cháu bé đi để có căn cứ xử lý theo pháp luật.

Trao đổi với phóng viên báo Tin tức, Luật sư Nguyễn Anh Thơm cho rằng, xét hành vi của đối tượng đã xâm phạm đến quan hệ về quyền được chăm sóc, nuôi và sống chung với cha mẹ, quyền được bảo vệ của trẻ em.

“Đối tượng là người không quen biết, không được gia đình đồng ý đón cháu đã tự ý vào trường đưa cháu bé thoát khỏi sự quản lý, chăm nom của bố mẹ, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quan hệ về quyền được chăm sóc, nuôi và sống chung với cha mẹ, quyền được bảo vệ của trẻ em, đã phạm vào Tội: "Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi" quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự - BLHS là có căn cứ”, Luật sư Nguyễn Anh Thơm cho biết.

Nhiều ý kiến cho rằng, nếu xét thấy đối tượng có biểu hiện tâm lý bất thường, cơ quan điều tra sẽ xem xét đối tượng đã từng điều trị bệnh để có căn cứ trưng cầu giám định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi trước, trong và sau khi phạm tội. Ngoài ra, cơ quan điều tra sẽ làm rõ động cơ, mục đích của đối tượng và có hay không đồng phạm trong vụ việc này để xử lý.

“Nếu có hành vi bắt cóc trẻ làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc theo Điều 169 BLHS. Nếu dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ trẻ em, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 153 BLHS”, Luật sư Hoàng Thị Hương Giang (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) cho biết.

Trước đó, khoảng 16 giờ ngày 13/1, Công an TP Thủy Nguyên, Hải Phòng nhận được trình báo về việc một cô gái lạ vào trường học, đọc tên bé gái 4 tuổi rồi nói cô giáo cho đón về. Thấy vậy, bé gái chạy theo người này ra tủ lấy đồ cá nhân rồi cùng rời trường. Gia đình chỉ biết việc này khi 16 giờ 30 phút cùng ngày, mẹ bé thuê người đến đón lại được cô giáo báo con đã về.

Điều 153. Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; c) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng; d) Đối với từ 02 người đến 05 người; đ) Phạm tội 02 lần trở lên; e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Đối với 06 người trở lên; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; d) Làm nạn nhân chết; đ) Tái phạm nguy hiểm.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Minh Phương/Báo Tin tức

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/phap-luat/luat-su-phan-tich-goc-do-phap-ly-vu-be-gai-o-hai-phong-bi-bat-coc-20250115180341926.htm