Lý do không ngờ gây mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam
Bên cạnh mức sinh thay thế thấp, Việt Nam cũng đang đối mặt với việc mất cân bằng giới tính khi sinh.
Dư thừa 1,5 triệu nam giới vào năm 2034
Bà Hoàng Thị Thơm - Phó Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế cho hay, theo dự báo của Tổng cục Thống kê nếu mức độ mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn cao như hiện nay thì Việt Nam sẽ dư thừa 1,5 triệu nam giới vào năm 2034 và tăng lên 2,5 triệu vào năm 2059.
Việt Nam xuất hiện tình trạng mất cân bằng giới bắt đầu từ năm 2006, với tỉ số giới tính khi sinh là 109,8 bé trai/100 bé gái.
"Chúng ta đã khống chế được tốc độ gia tăng của tỉ số giới tính khi sinh nhưng hiện vẫn ở mức cao, từ năm 2012 đến nay luôn duy trì ở mức trên 112 bé trai/100 bé gái (năm 2023 là 112)", bà Thơm nói.
Thông tin từ Bộ Y tế, có nhiều cách để thực hiện lựa chọn giới tính thai nhi trong thời đại công nghệ hiện nay, phương pháp chủ yếu là lạm dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để thực hiện lựa chọn giới tính như: áp dụng ngay từ trước lúc có thai (chế độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn…); trong lúc thụ thai (chọn thời điểm phóng noãn, chọn phương pháp thụ tinh, lọc rửa tinh trùng để chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y…); hoặc khi đã có thai (sử dụng siêu âm, bắt mạch, chọc hút dịch ối…) để chẩn đoán giới tính…
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động trực tiếp, gián tiếp, bao gồm: Tư tưởng nối dõi tông đường đã làm cho tâm lý ưa thích con trai trở lên mãnh liệt...; Lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh.
Những nguyên nhân tác động gián tiếp nhưng mức tác động khá mạnh như: Do áp lực giảm sinh, mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1-2 con nhưng phải có con trai nên đã sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính thai nhi.
Do nhu cầu kinh tế, điều kiện lao động thủ công làm nhiều công việc nặng nhọc trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, khai thác khoáng sản, đi biển đánh bắt xa bờ,... đòi hỏi sức lao động cơ bắp của con trai và con trai là trụ cột về kinh tế là sự bảo đảm bình yên cho cả gia đình; do gần 70% dân số nước ta còn sống ở nông thôn, hầu hết không có lương hưu khi về già và trách nhiệm phụng dưỡng chủ yếu thuộc về con trai…
Bên cạnh các nguyên nhân trên, còn có nguyên nhân về pháp luật chưa đồng bộ. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về lựa chọn giới tính thai nhi chưa được đẩy mạnh. Việc hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái còn chưa tương xứng...
Theo các chuyên gia y tế, nếu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam tiếp tục gia tăng và không được kiểm soát sẽ để lại những hệ lụy khó lường về xã hội, kinh tế, thậm chí cả an ninh chính trị. Như ảnh hưởng đến cá nhân, gia đình và cộng đồng, xã hội, các chuẩn mực xã hội. Vị thế và vai trò của người phụ nữ ngày càng bị hạ thấp, phụ nữ còn trở thành hàng hóa của nạn buôn bán người và mại dâm.
Tỉ số giới tính khi sinh tiếp tục cao trong các năm tiếp theo thì đến năm 2050 nước ta sẽ có khoảng 2,3 - 4,3 triệu nam thanh niên ít có cơ hội lấy được vợ trong nước, gây hệ lụy cho sự phát triển bền vững.
Đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng
Để giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh và đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, trong dự án luật Dân số, Bộ Y tế hướng đến chính sách nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.
Theo đó, mục tiêu nhằm xây dựng các giải pháp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỉ số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên, góp phần giảm thiểu những hệ luy về xã hội và nhân khẩu học do tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh gây ra, thúc đẩy bình đẳng giới.
Dự thảo Luật quy định các biện pháp can thiệp vào nguyên nhân gốc rễ của việc lựa chọn giới tính khi sinh là sự ưa thích sinh con trai, quan niệm về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường; các biện pháp hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái; tuyên truyền vận động, truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, không lựa chọn giới tính thai nhi; thực hiện có hiệu quả các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới.
Quy định nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính khi sinh dưới mọi hình thức; thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Các giải pháp thực hiện chính sách bao gồm:
Giải pháp 1: Lồng ghép các mục tiêu, nội dung về bình đẳng giới trong xây dựng, thực hiện chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội cấp quốc gia và địa phươrg.
Nâng cao vị trí, vai trò và tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
Rà soát, bổ sung các hành vi nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi và phân biệt đối xử giới dưới mọi hình thức, tăng nặng mức xử phạt; rà soát, bổ sung và thực hiện có hiệu quả các biện pháp, các chương trình, đề án thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới, đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn.
Thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, chú trọng các hành vi lạm dụng các công nghệ, kỹ thuật để lựa chọn giới tính khi sinh. Tuyên truyền vận động, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và không lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức, phân biệt đối xử giới.
Nghiêm cấm việc nghiên cứu, sản xuất, nhập khẩu, lưu hành các sản phẩm ứng dụng trong chẩn đoán, lựa chọn giới tính trước khi sinh.
Giải pháp 2: Giữ nguyên hiện trạng như quy định hiện hành.
Bộ Y tế đề xuất lựa chọn giải pháp 1 với các lý do cụ thể: Giải pháp 1 sẽ quy định các biện pháp, nội dung cụ thể can thiệp vào nguyên nhân cơ bản là sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm sinh, văn hóa nho giáo với phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường cũng như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình và xã hội tại mỗi vùng, miền; đảm bảo tốt hơn quyền của phụ nữ trong phát triển.
Cùng với đó, giúp giảm tác động của sự bất bình đẳng giới, tạo cơ hội nâng cao vị thế cho phụ nữ, tạo dư luận xã hội ủng hộ, chống sự phân biệt, đối xử với phụ nữ.
Tạo cơ sở pháp lý ngăn ngừa có hiệu quả việc lạm dụng khoa học, công nghệ, việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang thai hoặc chẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới phá thai vì lý do lựa chọn giới tính; tăng nặng mức xử phạt; nghiêm cấm việc nghiên cứu, sản xuất, nhập khẩu, lưu hành các sản phẩm ứng dụng trong chẩn đoán, lựa chọn giới tính trước khi sinh.
Đồng thời, phù hợp, tương thích với các điều ước quốc tế liên quan đến công tác dân số mà Việt Nam là thành viên và các cam kết quốc tế của Việt Nam về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về giới, đặc biệt đối với trẻ em gái và việc coi trọng nam giới hơn nữ giới.
Nỗ lực thay đổi định kiến giới
Bà Nguyễn Vân Anh - giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng khoa học về giới - gia đình - phụ nữ và trẻ em vị thành niên (CSAGA) cho rằng nguyên nhân gốc rễ là do quan niệm coi trọng nam giới dẫn đến việc nhiều gia đình muốn lựa chọn sinh con trai thay vì sinh con một cách tự nhiên.
"Những định kiến giới đã được hình thành từ hàng trăm năm qua và ăn sâu vào tâm lý qua nhiều thế hệ. Vì vậy, chúng ta cần nhiều thời gian và nỗ lực để thay đổi định kiến ấy.
Chúng ta cũng nhận thấy rõ ngày nay phụ nữ đã có vị thế hơn trong xã hội. Họ đã được tạo điều kiện để phát huy điểm mạnh của mình. Quan niệm đàn ông phải là trụ cột gia đình cũng đã không còn đúng trong bối cảnh hiện nay.
Và khi con trai hay con gái đều được đối xử, được phát triển, đảm đương công việc… như nhau thì định kiến giới mới dần thay đổi. Bình đẳng giới sẽ phá bỏ được quan niệm phải sinh con trai và thay vào đó việc có thể sinh con, làm cha mẹ đã là hạnh phúc của mỗi người", bà Vân Anh nói.