Lý giải tình trạng khủng hoảng thị trường lao động tại Thụy Sỹ

Giống như hầu hết các nền kinh tế phát triển, Thụy Sỹ đang trải qua tình trạng thiếu hụt lao động kỷ lục trong một số lĩnh vực then chốt.

Người dân đeo khẩu trang nhằm ngăn dịch COVID-19 lây lan, tại Geneva, Thụy Sỹ ngày 9/4/2020. Ảnh: AFP/TTXVN

Người dân đeo khẩu trang nhằm ngăn dịch COVID-19 lây lan, tại Geneva, Thụy Sỹ ngày 9/4/2020. Ảnh: AFP/TTXVN

Tình trạng dân số già và lối sống thay đổi đang làm biến đổi sâu sắc thị trường lao động quốc gia Tây Âu và đây mới chỉ là bước khởi đầu.

Cuối năm 2022, Thụy Sỹ ghi nhận hơn 120.000 cơ hội việc làm được đăng ký. Đây là con số cao nhất được Cục Thống kê Liên bang Thụy Sỹ ghi nhận kể từ khi cơ quan này bắt đầu thu thập các dữ liệu liên quan vào năm 2003.

Các vị trí tuyển dụng lâu dài được ghi nhận trong nhiều lĩnh vực khác nhau như sản xuất, y tế, thương mại, khách sạn và nhà hàng, xây dựng và công nghệ thông tin. Tuy nhiên, một số công việc có chuyên môn quan trọng nhất định, được ghi lại trong chỉ số thiếu hụt kỹ năng hàng năm của Adecco, lại tỏ ra đặc biệt khó tìm kiếm.

Nhu cầu về nhân sự được khuếch đại bởi tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong 20 năm qua - ở mức 2,2%, theo Ban thư ký Nhà nước về các vấn đề kinh tế (SECO). Với tỷ lệ này, có thể coi là Thụy Sỹ đang toàn dụng lao động.

Có lẽ Thụy Sỹ không hề đơn độc trong thách thức này. Báo cáo về những khó khăn tuyển dụng trong cuộc khảo sát năm 2022 của ManpowerGroup cho thấy mức độ thiếu hụt lao động toàn cầu nghiêm trọng chưa từng có.

Theo ManpowerGroup, tình trạng thiếu lao động ở Thụy Sỹ nằm ở mức trung bình toàn cầu, với 74% các công ty đang gặp khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự cần thiết. Tình hình đặc biệt căng thẳng ở vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), Bồ Đào Nha, Singapore, Trung Quốc và Ấn Độ.

Mặc dù có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu (EU) nhưng tỷ lệ thất nghiệp trung bình ở Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone) cũng ở mức thấp lịch sử. Nhìn chung, đã lâu rồi kinh tế thế giới mới phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động như vậy.

Lấp đầy khoảng trống

Xu hướng phục hồi kinh tế mạnh mẽ sau giai đoạn đỉnh điểm của đại dịch COVID-19 đã khiến nhu cầu nhân sự của các công ty tăng cao. Tuy nhiên, tình trạng thiếu lao động hiện nay cũng bắt nguồn từ một số nguyên nhân cơ cấu khác.

Theo Philippe Wanner - Giáo sư viện nhân khẩu học và kinh tế xã hội của Đại học Geneva, dân số già là thách thức chính ở các nước phát triển. Tỷ lệ sinh ở các nước công nghiệp hóa từ lâu đã thấp hơn rất nhiều so với ngưỡng thay thế thế hệ (2,1 trẻ em/phụ nữ), kể cả ở Trung Quốc, nơi dân số đã giảm lần đầu tiên sau 60 năm vào năm 2022.

Thế hệ baby boomers - thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh, sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số từ năm 1945 đến đầu những năm 1960 - đã bắt đầu nghỉ hưu. Đỉnh điểm nghỉ hưu của thế hệ này sẽ diễn ra từ nay đến năm 2030, để lại một khoảng trống khó lấp đầy.

Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng trong một số ngành nghề như y học đa khoa. Ở Thụy Sỹ, sự xuất hiện của những người lao động trẻ tuổi tham gia vào lực lượng lao động không còn bù đắp được cho những người nghỉ hưu, và khoảng cách sẽ chỉ ngày càng lớn hơn từ nay đến cuối thập kỷ này.

Sẽ thật ngây thơ khi hy vọng rằng tỷ lệ sinh mới sẽ khắc phục được vấn đề. Ông Wanner nói: “Trong các xã hội tư bản, các gia đình đông con thường không tương thích với hai cha mẹ đang đi làm. Ông giải thích, chỉ những chính sách gia đình hào phóng như ở các nước Bắc Âu mới có thể khuyến khích tỷ lệ sinh cao hơn, nhưng không phải trong ngắn hạn”.

Ông Wanner xác định hai chiến lược chính để giải quyết cuộc khủng hoảng lao động. Đầu tiên là tạo điều kiện hòa nhập tốt hơn để một số nhóm lao động thiếu việc làm tham gia thị trường lao động. Ở Thụy Sỹ, điều này có thể áp dụng đặc biệt cho phụ nữ, đặc biệt là những người có trình độ thấp hơn, nhiều người trong số họ hiện không có động lực kinh tế để đưa con cái vào nhà trẻ – và cho những người xin tỵ nạn.

Cách tiếp cận thứ hai là khuyến khích nhập cư. Thụy Sỹ đã cam kết đi theo con đường này từ năm 2002 do thỏa thuận giữa Thụy Sỹ và Liên minh châu Âu (EU) cho phép người dân tự do đi lại. Trong 20 năm qua, dân số của Thụy Sỹ đã tăng 20% và dự kiến sẽ đạt 9 triệu người vào năm 2023. Sự tăng trưởng nhanh chóng này trong hai thập kỷ qua là không đồng đều ở châu Âu và phần lớn là do nhập cư, với khoảng 30% cư dân Thụy Sỹ được sinh ra ở nước ngoài.

Liệu sự tăng trưởng này có bền vững? Số lượng cơ hội việc làm đặc biệt cho thấy dòng lao động nước ngoài bắt nguồn từ nhu cầu kinh tế thực sự. Nhưng nhập cư cũng có những tác động đối với cơ sở hạ tầng, nhà ở và sự gắn kết xã hội. Do đó, nhập cư mang tính chính trị cao và có thể trở thành một trong những vấn đề chính trong chiến dịch tranh cử cho cuộc bầu cử liên bang, dự kiến vào mùa Thu năm 2023.

Để lôi kéo những người nhập cư có kỹ năng mong muốn, một quốc gia phải hấp dẫn. Cho đến nay, Thụy Sỹ chắc chắn đã nắm giữ lợi thế này nhờ mức lương hậu hĩnh, điều kiện làm việc thuận lợi và mức sống cao. Tuy nhiên, cạnh tranh toàn cầu về người lao động chắc chắn sẽ gay gắt hơn do tình trạng thiếu lao động trên toàn thế giới. Ông Wanner chỉ ra rằng các quốc gia đang tìm kiếm các bộ kỹ năng chuyên biệt hơn bao giờ hết và “không rõ liệu Thụy Sỹ có thể duy trì sức hấp dẫn của mình đối với giới tinh hoa chuyên nghiệp hay không”.

Ông Wanner cho biết, một số quốc gia đã bắt đầu “một loại tiếp thị nhân khẩu học” để thu hút người lao động. Chẳng hạn, nhiều người trong cộng đồng người Bồ Đào Nha trẻ tuổi đang trở về nhà nhờ điều kiện kinh tế được cải thiện ở quê hương và các ưu đãi tài chính cho việc hồi hương mà nước này đã đưa ra kể từ năm 2019.

Kỹ năng phù hợp

Những thách thức mà các nền kinh tế thế giới phải đối mặt tồn tại không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng. Ông Wanner lưu ý rằng sự đảo ngược tháp tuổi đang diễn ra “trong quá trình biến đổi ghê gớm của thị trường lao động”. Ông cũng chỉ ra rằng sự chuyển dịch ngày càng mạnh mẽ sang chuyên môn hóa và lĩnh vực dịch vụ đang khiến một số ngành nghề biến mất, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất; đồng thời khuyến khích sự phát triển nhanh chóng của các công việc khác, ví dụ như trong lĩnh vực công nghệ.

Ông Wanner nói: “Những thay đổi này chắc chắn sẽ còn nổi bật hơn nữa trong tương lai, với tiến bộ về người máy và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, ông tin rằng các công nghệ mới sẽ chỉ có thể thay thế một phần công nhân. Ông Wanner nhấn mạnh: “Yếu tố con người đang và sẽ luôn quan trọng. Chúng ta chưa phát minh ra robot có khả năng xây dựng đường xá”.

Ông Wanner cho biết, trong 20 năm qua, Thụy Sỹ đã trông cậy vào những người lao động châu Âu để lấp đầy những công việc mà người Thụy Sỹ không muốn làm, những công việc thường yêu cầu ít bằng cấp hơn. Tuy nhiên, ông dự đoán, với trình độ đào tạo ngày càng tăng trên khắp châu Âu, việc tuyển dụng từ bên ngoài EU sẽ ngày càng cần thiết. Tuy nhiên, nhập cư vào Thụy Sỹ từ các nước ngoài EU được quy định chặt chẽ và chỉ được phép cho những người lao động có trình độ cao.

“Đây có thể là vấn đề trong tương lai,” ông Wanner nói. Vẫn chưa rõ giới chính trị sẽ vật lộn với câu hỏi hóc búa này như thế nào trong những năm tới, cũng như liệu có đồng ý nới lỏng các hạn chế hay không.

Ông Wanner giải thích rằng sự thay đổi nhân khẩu học sẽ gây ra những thay đổi trực tiếp nhất định trên thị trường lao động. Ví dụ, sự gia tăng dân số và giảm quy mô hộ gia đình sẽ đòi hỏi phải có thêm nhà ở và do đó thúc đẩy ngành xây dựng. Dân số già và thực tế là ngày càng có nhiều phụ nữ đi làm sẽ làm tăng nhu cầu về người chăm sóc.

Tuy nhiên, lập kế hoạch chính xác cho các nhu cầu trong tương lai là rất khó khăn, đặc biệt là đối với các ngành nghề chưa tồn tại. Cần phải có khả năng dự đoán nhu cầu kinh tế trong 10 năm tới để bắt đầu điều chỉnh giáo dục và đào tạo cho phù hợp, ông Wanner giải thích./.

Tố Uyên (P/v TTXVN tại Geneva)

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/ly-giai-tinh-trang-khung-hoang-thi-truong-lao-dong-tai-thuy-sy/280682.html