Mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử được quản lý theo hướng nào?
Theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cần phân biệt 'nền tảng thương mại điện tử trung gian' và 'mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử' để có cách thức quản lý phù hợp.

Thương mại điện điện tử đang phát triển mạnh, cần được quản lý để phát triển lành mạnh
Góp ý dự thảo Luật Thương mại điện tử, VCCI cho biết khoản 5 và 6 Điều 3 quy định về mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử hiện còn trùng lặp, chưa làm rõ sự khác biệt giữa “nền tảng thương mại điện tử trung gian” và “mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử”.
Với định nghĩa hiện tại, mạng xã hội dễ bị coi là nền tảng trung gian, trong khi phần lớn mạng xã hội chỉ đơn thuần kết nối và trao đổi thông tin, không tham gia trực tiếp vào giao dịch.
VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định này. Cụ thể, Điều 3.5: Nền tảng thương mại điện tử trung gian là nền tảng thương mại điện tử được thiết lập với mục đích chính để đóng vai trò trung gian trong việc mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ giữa các bên thông qua việc; Trực tiếp tham gia vào các hoạt động đặt hàng trực tuyến, quản lý thanh toán, triển khai và theo dõi đơn hàng; và nhận thù lao, hoa hồng hoặc các loại phí khác liên quan trực tiếp đến các hàng hóa và dịch vụ được giao dịch trên hoặc thông qua nền tảng.
Nền tảng thương mại điện tử trung gian có một trong các chức năng: mở gian hàng, đặt hàng trực tuyến, tiếp thị liên kết, hoặc phát trực tuyến bán hàng.
Điều 3.6. Mạng xã hội hoạt động thương mại điện tử là nền tảng được thiết lập với vai trò chính là kết nối giữa người bán và người mua, cho phép họ tương tác và chia sẻ thông tin, và có kèm thêm một số tính năng có thể được sử dụng cho mục đích thương mại như: mở gian hàng, đặt hàng trực tuyến, tiếp thị liên kết, hoặc phát trực tuyến bán hàng.
Về nghĩa vụ của các nền tảng mạng xã hội (Điều 17), theo VCCI, mạng xã hội chủ yếu chỉ có chức năng tương tác và thông tin liên lạc. Mạng xã hội không có các trường dữ liệu đặc trưng như tên sản phẩm; giá cả; khối lượng, số lượng, đơn vị.
Trong nhiều trường hợp, người dùng mạng xã hội có thể sử dụng các trường dữ liệu về chữ, hình ảnh để đăng tải các thông tin thương mại. Ví dụ, một cá nhân tận dụng chức năng đăng tải chủ đề thảo luận trên diễn đàn sở thích về ô tô để bán phụ kiện ô tô. Dù nội dung của bài viết đó có các thông tin về sản phẩm, giá cả, số lượng hàng hóa, dịch vụ nhưng không hình thành trường dữ liệu riêng cho các nội dung này.
Trong một số trường hợp, mạng xã hội có cung cấp chức năng hỗ trợ thương mại điện tử như có sự trường dữ liệu riêng để đăng tải thông tin về hàng hóa; có sự phân loại giữa nhóm có hoạt động thương mại và nhóm khác… Tuy nhiên, nhìn chung, các chức năng này tương đối hạn chế.
Do vậy, VCCI cho rằng việc quy định trách nhiệm của các mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử cần dựa trên tính năng mà nền tảng cung cấp để có tính khả thi và phù hợp với thực tiễn.
Điều 17 Dự thảo quy định mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử phải thực hiện các nghĩa vụ của nền tảng thương mại điện tử trung gian. Tuy nhiên, doanh nghiệp cho rằng một số nghĩa vụ là chưa thực sự phù hợp, cần cân nhắc như: xác thực điện tử danh tính; Xác nhận nội dung hợp đồng, lưu trữ nội dung; Nghĩa vụ liên quan đến đặt hàng trực tuyến…