Mất luôn nửa tỷ đồng vì tin nhắn 'con gái' cần tiền gấp
Một vụ lừa đảo tinh vi vừa xảy ra tại Hà Nội, khi một người phụ nữ đã chuyển 500 triệu đồng cho kẻ giả danh con gái mình qua tin nhắn.
Dù đã gọi điện xác nhận với con gái ngay sau đó và trình báo công an, số tiền lớn vẫn có nguy cơ không thể thu hồi, là hồi chuông cảnh báo về thủ đoạn lừa đảo ngày càng tinh vi nhắm vào tình cảm gia đình.
Tin nhắn “con gái” cần tiền gấp
Thời gian qua, Công an Thành phố đã cảnh báo chiêu trò lừa đảo giả danh người thân, bạn bè bằng cách chiếm quyền tài khoản Facebook hoặc tạo tài khoản giả có hình đại diện, tên giống người quen của nạn nhân. Tuy nhiên, nhiều người vẫn mất cảnh giác, sập bẫy lừa đảo chiêu trò này.
Mới đây, vào ngày 09/6/2025, Công an thị trấn Văn Điển, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội tiếp nhận đơn trình báo của chị X (SN: 1972; trú tại Thanh Trì, Hà Nội) về việc bị lừa đảo chiếm đoạt hơn 500 triệu đồng. Chị X cho biết có nhận được tin nhắn Messenger có nickname và hình ảnh đại diện giống tên tài khoản con gái bà đang ở bên nước ngoài với nội dung nhờ “mẹ” chuyển hộ 500 triệu đồng để kinh doanh. Do tin tưởng nghĩ đó là facebook của con gái mình nên chị X đã chuyển tiền vào tài khoản do đối tượng cung cấp. Sau đó con gái chị X gọi điện thoại nói chuyện thì chị mới biết mình bị lừa nên đã đến cơ quan Công an trình báo.

Ảnh minh họa (Ảnh: Pháp luật và Xã hội)
Trước đó, vào sáng 22/5/2025, bà C (68 tuổi; trú tại: Long Biên, Hà Nội) nhận được tin nhắn Messenger có nickname và hình ảnh đại diện giống tên tài khoản con gái bà với nội dung nhờ “mẹ” chuyển hộ 40 triệu đồng. Tài khoản này lấy lý do ứng dụng SmartBanking của ngân hàng đang bảo trì nên không chuyển tiền được. Do tin tưởng nghĩ đó là facebook của con gái mình nên bà C đã chuyển số tiền 40 triệu đồng vào tài khoản được gửi kèm theo tin nhắn. Sau khi chuyển tiền xong bà C gọi điện thoại cho con gái thì được biết con gái không vay tiền của bà và tài khoản facebook đó là mạo danh. Biết mình bị lừa, bà C đã đến cơ quan Công an trình báo.
Cảnh báo từ lực lượng chức năng
Để phòng tránh lừa đảo, Công an thành phố Hà Nội khuyến cáo người dân:
- Khi nhận được tin nhắn hoặc cuộc gọi yêu cầu vay, mượn tiền, phải luôn bình tĩnh xác minh, nhất là các cuộc gọi có nội dung cần tiền gấp, chuyển tiền ngay. Gọi trực tiếp qua số điện thoại thông thường hoặc gặp mặt trực tiếp để kiểm chứng.
- Tránh bấm vào các đường link lạ, dù người gửi là những người quen.
- Khi chuyển tiền, luôn kiểm tra kỹ thông tin tài khoản ngân hàng để chắc chắn họ tên người nhận khớp với người định chuyển tiền.
- Thường xuyên cập nhật thông tin cảnh báo từ cơ quan chức năng để nâng cao cảnh giác, bảo vệ tài sản và thông tin cá nhân của mình.
- Khi gặp các trường hợp có dấu hiệu lừa đảo, người dân cần kịp thời trình báo cơ quan Công an để ngăn chặn và xử lý theo quy định của pháp luật.
Trao đổi với PV Báo Tri thức và Cuộc sống, luật sư Nguyễn Ngọc Hùng - Trưởng Văn phòng luật sư Kết Nối (Đoàn luật sư TP Hà Nội) cho biết, thời gian gần đây, tình trạng các đối tượng mạo danh người thân thông qua tin nhắn, cuộc gọi để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản ngày càng phổ biến. Hành vi này không chỉ gây thiệt hại về kinh tế mà còn khiến nhiều người hoang mang, bức xúc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội.
Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là việc dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Trong trường hợp giả mạo là người thân để nhắn tin, gọi điện, tạo niềm tin nhằm lấy được tiền hoặc tài sản của nạn nhân, đây chính là hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo đó, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trong những trường hợp hành vi lừa đảo chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm hình sự, người vi phạm vẫn sẽ bị xử lý hành chính. Cụ thể, theo điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP thì hành vi sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản sẽ bị phạt tiền từ từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Nếu đối tượng thực hiện hành vi vi phạm là tổ chức thì mức phạt sẽ gấp đôi mức phạt trên căn cứ theo khoản 2 Điều 4 Nghị định này. Bên cạnh hình thức phạt tiền, người vi phạm còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả, tùy thuộc vào mức độ vi phạm và thiệt hại gây ra.

Luật sư Nguyễn Ngọc Hùng - Trưởng Văn phòng luật sư Kết Nối (Đoàn luật sư TP Hà Nội).
Theo quy định của Bộ luật Hình sự hành vi giả danh người thân để lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị xử lý theo Điều 174 về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt lớn, người phạm tội có thể bị phạt tù lên đến 20 năm hoặc tù chung thân, kèm theo hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc tịch thu tài sản.
Đáng chú ý, nếu hành vi phạm tội có sử dụng thiết bị công nghệ, mạng máy tính, mạng viễn thông thì còn có thể bị xem xét theo Điều 290 Bộ luật Hình sự Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài sản. Tội danh này quy định mức hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 20 năm, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 3 Nghị định 25/2014/NĐ-CP cũng xác định Tội phạm sử dụng công nghệ cao là hành vi vi phạm pháp luật hình sự có tính chất nguy hiểm cho xã hội và được thực hiện bằng phương tiện, phương pháp công nghệ cao. Nhóm tội phạm công nghệ cao này bao gồm các hành vi được quy định từ Điều 285 đến Điều 294 Bộ luật Hình sự, chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông.
Có thể thấy, hành vi sử dụng công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản của người khác là một trong các cấu thành tội phạm của một số tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự. Do đó, hành vi sử dụng công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản không là tình tiết tăng nặng.
Trong những trường hợp hành vi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, người vi phạm vẫn có thể bị xử lý hành chính. Theo Điều 81 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, hành vi sử dụng mạng để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt hành chính từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Ngoài ra, người vi phạm còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, nếu vi phạm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Nghị định này.
Khi phát hiện mình có dấu hiệu bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người dân hoàn toàn có quyền làm đơn tố giác tội phạm để yêu cầu cơ quan chức năng điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. Căn cứ theo khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm được phân định rõ ràng giữa các cơ quan. Đồng thời, khoản 4 Điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định về thẩm quyền điều tra của các cơ quan có trách nhiệm. Theo đó, người dân có thể nộp đơn tố giác hoặc đến trực tiếp để trình báo tại một trong các cơ quan: Cơ quan công an cấp quận, huyện, thị xã nơi người dân đang cư trú (thường trú hoặc tạm trú); Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Tòa án nhân dân; Hoặc các cơ quan khác có thẩm quyền tại nơi xảy ra vụ việc, nơi phát hiện tội phạm hoặc nơi cư trú của đối tượng nghi thực hiện hành vi phạm tội.
Khi trình báo, người bị hại nên chuẩn bị đầy đủ thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan (chẳng hạn như tin nhắn, cuộc gọi, biên lai chuyển tiền…) để hỗ trợ cơ quan chức năng xác minh, điều tra và xử lý vụ việc. Việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt sẽ phụ thuộc vào kết quả điều tra và khả năng truy vết, thu hồi tài sản từ phía cơ quan công an. Trong trường hợp nghi phạm bị bắt giữ và tài sản chưa bị sử dụng hoặc tẩu tán, người bị hại có thể được hoàn trả một phần hoặc toàn bộ số tiền bị chiếm đoạt. Việc trình báo kịp thời sẽ giúp cơ quan điều tra có thêm thời gian, điều kiện để xử lý vụ việc hiệu quả và tăng khả năng thu hồi tài sản. Người dân không nên ngần ngại hoặc trì hoãn việc tố giác vì điều đó có thể ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của chính mình.