Minh bạch trong dán nhãn năng lượng và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

Trong phiên thảo luận ngày 28/5 tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, các đại biểu Quốc hội đã tập trung phân tích dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, nhấn mạnh vào minh bạch trong dán nhãn năng lượng và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời làm rõ các giải pháp nhằm đáp ứng cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, đảm bảo an ninh năng lượng và thúc đẩy phát triển bền vững.

Quang cảnh Hội trường phiên họp

Quang cảnh Hội trường phiên họp

Minh bạch và hậu kiểm trong dán nhãn năng lượng

Các đại biểu Quốc hội nhấn mạnh rằng minh bạch và hậu kiểm trong dán nhãn năng lượng là yếu tố then chốt để bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy sử dụng năng lượng hiệu quả. Đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh (Khánh Hòa) nhận định quy định về dán nhãn năng lượng tại Điều 37 và Điều 39 là cần thiết, nhưng thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát việc tuân thủ, đặc biệt trên các nền tảng thương mại điện tử. Ông đề xuất bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý trong việc kiểm tra định kỳ và xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp không tuân thủ dán nhãn năng lượng, đồng thời công khai danh sách các doanh nghiệp vi phạm để bảo vệ người tiêu dùng. Theo ông, điều này sẽ tăng tính minh bạch và tạo niềm tin cho thị trường.

Đại biểu Trần Quốc Tuấn (Trà Vinh) nhấn mạnh tầm quan trọng của dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng, lĩnh vực tiêu tốn tới 36% tổng năng lượng toàn cầu. Ông đề xuất Chính phủ ban hành lộ trình dán nhãn bắt buộc cho các vật liệu như kính xây dựng, vật liệu cách nhiệt, đồng thời xây dựng hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam đồng bộ với quốc tế. Ông cũng kiến nghị xã hội hóa hoạt động thử nghiệm, cấp chứng nhận và áp dụng QR code, nền tảng số để truy xuất nhãn năng lượng minh bạch, giúp người tiêu dùng dễ dàng đánh giá sản phẩm. Ông Tuấn nhấn mạnh rằng, nếu thực hiện tốt, dán nhãn năng lượng sẽ thúc đẩy ngành xây dựng phát triển bền vững, tiết kiệm và văn minh.

Đại biểu Nguyễn Văn Cảnh (Bình Định) thì đề xuất khuyến khích các giải pháp tổ chức giao thông hợp lý để giảm ùn tắc, từ đó tiết kiệm năng lượng. Ông nêu ví dụ về vòng xoay ngã 6 Phù Đổng tại TP. Hồ Chí Minh, nơi tổ chức giao thông hiệu quả giúp hàng chục ngàn phương tiện tránh tắc nghẽn, tiết kiệm năng lượng và thời gian. Ông đề xuất bổ sung vào khoản 8 Điều 1, yêu cầu Bộ Xây dựng hướng dẫn tìm kiếm ý tưởng giảm ùn tắc giao thông, đồng thời bổ sung vào khoản 17 Điều 1 để Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm tài trợ cho các sáng kiến khả thi từ cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước.

Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tiết kiệm năng lượng

Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng được các đại biểu đánh giá là giải pháp thiết yếu để nâng cao hiệu quả thực thi luật. Đại biểu Cầm Thị Mẫn (Thanh Hóa) cho rằng, cần quy định bắt buộc các cơ quan nhà nước và cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm ký kết thỏa thuận sử dụng năng lượng tiết kiệm, thay vì chỉ khuyến khích như khoản 5 Điều 5. Bà nhấn mạnh rằng các cơ quan nhà nước cần tiên phong, bởi chi phí năng lượng từ ngân sách nhà nước đòi hỏi trách nhiệm cao hơn. Bà cũng đề xuất bổ sung quyền của Chính phủ để quy định chi tiết chỉ tiêu, phương pháp đo lường sử dụng năng lượng tiết kiệm, đảm bảo tính khả thi khi đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Đại biểu Lê Xuân Thân từ Khánh Hòa đề xuất lược bỏ các khái niệm giải thích từ ngữ tại khoản 12, 13, 14, 15 Điều 3, như chứng chỉ quản lý năng lượng hay hợp đồng hiệu quả năng lượng, vì chúng dễ hiểu hoặc đã được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ông cũng kiến nghị lược bỏ các quy định cụ thể về quản lý nhà nước của các bộ tại nhiều khoản của Điều 1, giao Chính phủ quy định bằng nghị định để đảm bảo tính linh hoạt và đổi mới tư duy lập pháp. Theo ông, điều này sẽ giảm rườm rà và tăng hiệu quả thực thi.

Đại biểu Nguyễn Thị Sửu (TP. Huế) nhấn mạnh trách nhiệm của cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm tại Điều 33, đề xuất bổ sung yêu cầu áp dụng mô hình quản lý năng lượng phù hợp với từng loại hình cơ sở, đảm bảo bảo dưỡng hệ thống đo đếm năng lượng đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và lưu trữ bảng cân bằng năng lượng theo mẫu thống nhất. Bà cũng đề xuất bổ sung hướng dẫn thực hiện và biểu mẫu báo cáo tại khoản 2 Điều 33, đồng thời thống nhất mốc thời gian báo cáo tại Điều 46, ấn định trước ngày 31/12 hằng năm, để đảm bảo tính khoa học và đồng bộ.

Trần Hương

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/minh-bach-trong-dan-nhan-nang-luong-va-ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-164914.html