Mỏ Bạch Hổ: Định danh Việt Nam trên bản đồ dầu khí

Mỏ Bạch Hổ, nằm ngoài khơi vùng biển Việt Nam, là một trong những câu chuyện kỳ diệu trong lịch sử dầu khí thế giới. Việc phát hiện dòng dầu có lưu lượng lớn tại tầng móng nứt nẻ đã giúp Bạch Hổ vươn lên trở thành mỏ dầu chiến lược, mang lại nguồn thu lớn và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước.

Từ những bước chân đầu tiên của thế hệ dầu khí những năm 1960 “đi tìm lửa” trên những bãi bồi Đồng bằng sông Hồng, đến “Ánh lửa màu da cam” (Tựa bút ký của Nhà văn Nguyễn Duy Thinh) tại Giếng khoan GK-61 trên cấu tạo mỏ Tiền Hải C, đến ngọn lửa đầu tiên vụt sáng trên Biển Đông năm 1984, là biết bao mồ hôi, công sức của các thế hệ tiên phong “đi tìm lửa”. Tháng 5/1984, dòng dầu đầu tiên được tìm thấy tại thềm lục địa Việt Nam. Ngày 3/6/1984, lễ mừng dòng dầu được tổ chức long trọng tại Vũng Tàu. Người dầu khí hân hoan, tự hào, nhân dân cả nước vui mừng. Niềm vui sau đó truyền đi trong triệu trái tim người Việt khi mỏ Bạch Hổ được chính thức đưa vào khai thác vào ngày 26/6/1986 - sự kiện chính thức đưa Việt Nam vào danh sách các nước sản xuất dầu khí trên bản đồ thế giới.

Giàn tự nâng Ekhabi phát hiện dầu trong tầng Oligocen (ngày 24/2/1986).

Giàn tự nâng Ekhabi phát hiện dầu trong tầng Oligocen (ngày 24/2/1986).

Theo lời ông Lê Quang Trung (nguyên Bí thư Đảng ủy, Phó Tổng Giám đốc Liên doanh Vietsovpetro) kể lại: “Năm 1984 phát hiện ra một giếng khoan có dầu. Chính phủ liền đặt vấn đề có thể nhanh chóng đưa mỏ Bạch Hổ vào khai thác được không. Về nguyên tắc làm dầu khí là sau khi phát hiện dầu phải tiến hành đánh giá trữ lượng. Khi nào đánh giá trữ lượng khai thác được hay không, khai thác trong bao nhiêu năm thì lúc đấy mới đặt các giàn khoan vào khai thác. Cán bộ kỹ thuật hai phía đánh giá trước đây có dầu, khoan tiếp có dầu rồi, chắc chắn có dầu khai thác được mà với sản lượng lớn, cho nên vừa tiến hành khoan thăm dò, vừa tiến hành xây dựng các giàn khoan ngoài biển. Đây là việc làm mang tính rủi ro lớn, bởi nếu trữ lượng không đạt yêu cầu khai thác thì việc xây giàn là tốn kém vô ích”.

Dòng dầu đầu tiên được chuyển về tàu Krưm ngày 26/6/1986 trong niềm hân hoan chung của đất nước, của tập thể cán bộ công nhân viên Vietsovpetro và của những người tìm dầu nói chung. Nhưng đối với lãnh đạo và các cán bộ Phòng Địa chất Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, niềm vui ấy không trọn vẹn. Sản lượng chỉ vẻn vẹn hơn 100 tấn/ngày, áp suất đầu giếng thấp, khoảng trên 20 at, thể hiện năng lượng vỉa yếu. Niềm tin vào một trang mới, đất nước đổi mới, phát triển giàu mạnh lớn bao nhiêu, thì cũng bấy nhiêu nỗi lo âu của tập thể, cán bộ Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro và Ban lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

“Chúng ta bắt đầu tổ chức khai thác mỏ Bạch Hổ thì thấy năng lượng vỉa rất thấp. Chỉ sau 4 tháng, lưu lượng từ khoảng 100 tấn/ngày xuống còn khoảng 20 tấn/ngày. Những giếng khoan vị trí số 1 cách khoảng 3-4m cho kết quả không như mong đợi. Điều này gây tâm lý bi quan không chỉ ở Việt Nam mà còn cả ở phía Nga… Trước tình hình triển vọng của Vietsovpetro không lớn như thế, hai bên tranh cãi gay gắt: bỏ hay không bỏ mỏ Bạch Hổ này”, ông Ngô Thường San (Chủ tịch danh dự Hội Dầu khí Việt Nam, nguyên Tổng Giám đốc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam) nhớ lại.

Từ bỏ Bạch Hổ hay không là vấn đề rất lớn đặt ra tại thời điểm lúc bấy giờ. Và dĩ nhiên, đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn được nghe cái tên Bạch Hổ, tất cả là nhờ những quyết định táo bạo nhưng cũng đầy quyết đoán của Ban lãnh đạo ngày ấy. Liên doanh Vietsovpetro đã hoàn toàn có khả năng bị xóa sổ nếu như không phải nhờ vào niềm tin vững chắc của đồng chí Đỗ Mười đối với tương lai dầu mỏ Việt Nam. Ông cũng là người có niềm tin mạnh mẽ vào sự hợp tác với Liên Xô.

“Kỳ tích” của ngành Dầu khí

Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, khi đó ở Liên Xô có “Perestroyka (cải tổ)” và ở Việt Nam là đường lối “Đổi mới”, làm ăn phải có hiệu quả. Vì thế, câu hỏi có tiếp tục hay không tiếp tục khai thác mỏ Bạch Hổ... trở nên gay gắt đối với Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro. Vòm Bắc có dầu nhưng chưa được khai thác, trong khi đó thì ở vòm Nam các giếng ở MSP-1 đang tắt dần, giàn MSP-2 đang ngâm mình dưới sóng biển. Việc di chuyển chân đế giàn MSP-2 lên phía Bắc trở thành công việc trọng tâm. Việc này lẽ ra phải được thực hiện trong thời gian biển tốt vào tháng 5, nhưng vì phía Liên Xô chưa chuẩn bị xong phương án, nên được hoãn đến tháng 9/1988.

Trong lúc chờ vật tư thi công, Vietsovpetro đã thực hiện đề xuất của lãnh đạo Cục Khoan biển ngày 24/6/1988, thử vỉa lại tầng móng ở giếng BH-1 đang cạn kiệt dầu từ Miocene. Kết quả, ngày 5/9/1988, dòng dầu từ nóc móng đã phun mạnh với lưu lượng 407 tấn/ngày và giếng BH-1 lập tức được đưa vào khai thác (ngày 11/9/1988).

Phát hiện dầu trong móng nứt nẻ tại giếng BH-1 mỏ Bạch Hổ (Ảnh tư liệu).

Phát hiện dầu trong móng nứt nẻ tại giếng BH-1 mỏ Bạch Hổ (Ảnh tư liệu).

Hồi ký của ông Vovk V. S., trong những năm 1988-1993 là Tổng Giám đốc Vietsovpetro viết: “Khi tôi trở lại, dĩ nhiên là tôi đã hỏi về tình hình công việc ở giếng khoan đầu tiên. Lưu lượng dầu ở giếng này khi đó là gần 7 tấn / ngày đêm và nó đang “tắt dần”. Tôi đã ra lệnh lập kế hoạch thi công khoan và đưa đến các thiết bị cần thiết để khoan và thử nghiệm giếng tiếp theo. Chúng tôi khoan hết một mũi, tiến hành kiểm tra, không phát hiện bất cứ trục trặc nào. Phải làm gì đây? Khoan tiếp! Tiếng chuông vang lên vào lúc 3 giờ sáng: “Giếng đang hoạt động, áp suất khoảng 120 atmosphere!”. Ngay sáng hôm sau nhanh chóng chuẩn bị và đóng đai rồi đưa giếng vào hoạt động luôn trong trạng thái lúc đó là cùng với ống khoan và đục khoan. Trong một giờ, lưu lượng đạt được là 1.200 tấn toàn dầu. 4 tháng sau, giếng mới được chuyển từ sơ đồ tạm thời sang thường xuyên”.

Việc phát hiện và khai thác dầu khí trong móng granit nứt nẻ ngay lập tức đã làm thay đổi chiến lược xây dựng và phát triển khu vực mỏ Bạch Hổ. Trong tháng 10/1989, lưu lượng trung bình hằng ngày của 35 giếng sản xuất là 4.598,7 tấn, lưu lượng trung bình của 1 giếng là 255 tấn / ngày, của giếng mới là 618 tấn/ngày. Các nhà khoa học đã tính toán rằng, nếu không có giếng khai thác từ tầng đá móng, sản lượng trung bình hằng ngày từ 1 giếng sẽ chỉ là 94,2 tấn, còn giếng mới là 121,5 tấn. Viện Nghiên cứu và Thiết kế dầu khí biển NIPI bắt đầu xây dựng một kế hoạch phát triển mới cho khu mỏ này. Đến ngày 1/12/1991, sản lượng trung bình hằng ngày của Vietsovpetro đạt 12 nghìn tấn.

Theo nhận định của ông Ngô Thường San, không chỉ thành công trong việc phát hiện dầu ở tầng đá móng, Việt Nam cũng đã tổ chức khai thác mỏ Bạch Hổ có hiệu quả với sản lượng rất cao. Chỉ trong thời gian ngắn đã đưa sản lượng đỉnh lên đến gần 12 triệu tấn/năm. Đó là sản lượng kỷ lục mà trên thế giới, các mỏ dầu khí trong đá móng, đặc biệt trong đá móng granit chưa có kỷ lục nào như thế. Những thành công bước đầu này đã trở thành những tư liệu rất quý đóng góp cho khoa học dầu khí ở khu vực và thế giới.

Cái tên “Bạch Hổ” đã đi vào các văn liệu dầu khí thế giới và trở thành một thành tựu có giá trị to lớn về khoa học và kinh tế, làm thay đổi rất lớn về đối tượng thăm dò dầu khí truyền thống. Các thành quả này đã định danh Việt Nam trên bản đồ dầu khí thế giới, đánh dấu một bước tiến vững chắc, khẳng định một tương lai đầy hứa hẹn cho ngành công nghiệp Dầu khí Việt Nam./.

Tr.L

Nguồn PetroTimes: https://petrovietnam.petrotimes.vn/mo-bach-ho-dinh-danh-viet-nam-tren-ban-do-dau-khi-720838.html