Mở lối tư duy kinh tế nông nghiệp - Bài 2: Bắt nhịp xu thế

Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp đã và đang là xu hướng tất yếu nhằm bảo vệ môi trường, giảm chi phí sức lao động, nâng cao giá trị sản phẩm nông sản.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp đã và đang là xu hướng tất yếu nhằm bảo vệ môi trường, giảm chi phí sức lao động, nâng cao giá trị sản phẩm nông sản, chú trọng chế biến sâu để đa dạng hóa sản phẩm nông sản....

Đó cũng chính là "chìa khóa" tạo ra bước đột phá đưa sản xuất nông nghiệp phát triển vượt bậc, qua đó làm thay đổi bức tranh nông nghiệp.

Ứng dụng công nghệ cao trồng dưa lưới trong nhà kín cho thu nhập cao. Ảnh: Huỳnh Phúc Hậu - TTXVN

Ứng dụng công nghệ cao trồng dưa lưới trong nhà kín cho thu nhập cao. Ảnh: Huỳnh Phúc Hậu - TTXVN

Anh Phạm Văn Hải, xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre là nông dân sản xuất ứng dụng công nghệ cao. Năm 2017, vừa tìm tòi vừa học hỏi, anh đầu tư xây dựng hai nhà màng, với hơn 800 m2/nhà để trồng dưa lưới. Anh Hải đào ao lót bạt trữ nước tưới vào mùa hạn mặn, dùng hệ thống tưới nhỏ giọt tự động ứng dụng từ công nghệ thủy canh Israel.

Theo anh Hải, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất giúp sản phẩm có chất lượng đảm bảo, do trồng trong nhà màng nên ngăn ngừa dịch bệnh, sâu rầy, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Từ đó, giảm được chi phí trong sản xuất làm tăng lợi nhuận.

Anh Hải cho biết, vốn đầu tư cho nhà màng, hệ thống tưới nước nhỏ giọt, hạt giống và nhân công ban đầu khoảng 350 triệu đồng. Mỗi vụ dưa thường kéo dài từ 60 - 70 ngày/vụ, nhà vườn có thể canh tác được 4 - 5 vụ/năm. Sản lượng dưa lưới thu hoạch đạt 3 tấn/vụ/nhà màng, giá bán từ 30.000 - 40.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, mỗi nhà màng cho lãi hơn 50 triệu đồng/vụ, tính tổng số vụ gieo trồng trong năm thì lợi nhuận lên đến hơn 300 triệu đồng.

Theo anh Hải, hệ thống nhà kính có ưu điểm vượt trội giúp chắn mưa, nắng, ngăn côn trùng xâm nhập, chủ động chế độ dinh dưỡng và do không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật mà chỉ sử dụng phân bón hữu cơ sinh học nên đảm bảo sản phẩm an toàn, giảm chi phí sản xuất. Riêng khi lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt tự động ứng dụng từ công nghệ thủy canh Israel, nước được tưới nhỏ giọt đến từng gốc cây, chính xác nên cây phát triển đồng đều và tiết kiệm nước.

Nông dân Lê Văn Sấm, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú (Bến Tre) gắn bó và làm giàu nhờ nuôi tôm công nghệ cao. Với trên 40 ha nuôi tôm công nghệ cao, ông Sấm thu hoạch trung bình 70-90 tấn/ha, mỗi năm thu lợi hơn 25 tỷ đồng. Theo ông Sấm, trước đây, ông phải "lận đận" với con tôm biển hơn 20 năm, có lúc, ông phải bán ao để trả nợ, vì tôm nuôi nhiễm bệnh. Năm 2013, ông "chơi lớn" đầu tư thử nghiệm mô hình nuôi tôm công nghệ cao.

Theo ông, nuôi tôm theo hướng công nghệ cao đòi hỏi nông dân phải thay đổi tư duy, cách làm so với cách nuôi truyền thống trước đây. Đặc biệt phải đầu tư trang thiết bị cho ao nuôi, ao nuôi được trải bạt hoàn toàn. Hệ thống xử lý chất thải trong ao, hệ thống tạo oxy cho ao cũng phải được đầu tư bài bản.

Ưu điểm của mô hình mới là có thể kiểm soát được môi trường nuôi, quản lý dịch bệnh, năng suất tôm thu hoạch cao gấp nhiều lần so với nuôi truyền thống. Khả năng thành công trên 90%, một năm có thể nuôi 2 - 3 vụ. Tuy nhiên, cần chia tôm theo từng giai đoạn nuôi để dễ dàng kiểm soát dịch bệnh, nguồn thức ăn, môi trường nước giúp tôm mau lớn, tránh dịch bệnh. Đa số người nuôi tôm hiện nay ứng dụng công nghệ cao chia thành 2 - 3 giai đoạn nuôi như ươm giống, tôm nhỏ, tôm lớn… để giúp tôm đạt hiệu quả, ông Sấm lưu ý.

Theo Nghị quyết số 04-NQ/TU về phát triển Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến 2030; trong đó có nuôi tôm công nghệ cao, mục tiêu đến năm 2025, tỉnh sẽ phát triển 4.000 ha nuôi tôm biển ứng dụng công nghệ cao và đến năm 2030 là 5.000 ha. Để đạt được mục tiêu đề ra, tỉnh rà soát quy hoạch và xây dựng các vùng nuôi theo hướng công nghệ cao; Đồng thời, tập trung phát triển nhanh, mạnh đối với tôm sú, tôm chân trắng có thị trường tốt; nhân rộng và phát triển mô hình nuôi tôm theo công nghệ cao, nuôi an toàn sinh học, nuôi 2 giai đoạn để nâng cao năng suất, sản lượng và phát triển bền vững.

Theo thống kê, đến nay, tỉnh Bến Tre đã phát triển được 2.867 ha tôm công nghệ cao đạt hiệu quả cao. Năng suất bình quân từ 60-70 tấn/ha mặt nước, lợi nhuận trung bình từ 700 - 800 triệu/vụ nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Sản lượng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao đạt 42.000 tấn chiếm 50% tổng sản lượng nuôi tôm nước lợ của tỉnh Bến Tre.

Còn tại Trà Vinh – nơi có diện tích trồng dừa đứng thứ 2 cả nước, để nâng cao sản lượng và chất lượng cho ngành hàng chủ lực, các nông dân trồng dừa đã tuân thủ áp dụng các biện pháp kỹ thuật theo hướng an toàn, hiện đại. Canh tác hơn 7.000 m2 dừa, nhà vườn Phan Văn Mót ngụ ấp An Cư, xã Tân Hòa, huyện Tiểu Cần cho biết, một trong những kỹ thuật được ông ưu tiên áp dụng là trồng thưa, bình quân 20 – 22 cây/1.000 m2. Thêm vào đó, mỗi năm ông bồi bùn một lần; thường xuyên làm cỏ, cắt tỉa để hạn chế sâu bệnh, chuột đục khoét trái dừa non; trữ nước ngọt bằng hệ thống đê bao cục bộ để đảm bảo nước ngọt phục vụ tưới tiêu, định kỳ 10 ngày tưới một lần để cung cấp nước và giữ độ ẩm để dừa giảm rụng trái non, giảm năng suất.

Đặc biệt trong quá trình canh tác, ông Mót ưu tiên tận dụng nguồn phế phẩm chăn nuôi tại địa phương (phân dê, bò,...) và bả thực vật, men vi sinh để "trả lại hữu cơ" cho đất. Bởi theo ông, phân chuồng chứa nhiều dưỡng chất giúp đất tơi xốp, cây trồng dễ hấp thụ, có độ ẩm ổn định, an toàn khi sử dụng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Ông Mót cho biết, bón phân hữu cơ bón từ 25 - 30 kg/cây/năm, chia làm 2 đợt bón vào đầu và cuối mùa mưa. Nhờ vậy, thời điểm hạn hán, mặn xâm nhập vẫn không ảnh hưởng đến vườn dừa của ông.

Ông Mót nói thêm, nông dân tham gia mô hình trồng dừa hữu cơ, ngoài việc được ngành nông nghiệp hướng dẫn kỹ thuật, quy trình chăm sóc, cách sử dụng phân bón tiêu chuẩn hữu cơ, điều an tâm nhất là được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm với mức giá cao hơn giá thị trường từ 10-15% so với cách sản xuất truyền thống trước đó. Hiện, vườn dừa của ông phát triển rất tốt, lá xanh mướt, ít sâu bệnh, năng suất cũng tăng từ tăng 800 – 1.000 trái/tháng, ông Mót so sánh.

Thấy rõ hiệu quả kinh tế, ông Mót đã vận động nhiều hộ dân ở ấp An Cư tham gia trồng dừa hữu cơ. Đến nay, toàn ấp An Cư có gần 50 hộ trồng dừa hữu cơ trên diện tích khoảng 60 ha. Tất cả diện tích này đều được Công ty cổ phần Chế biến dừa Á Châu (Bến Tre) bao tiêu sản phẩm, với giá cao hơn giá thị trường từ 4.000-5.000 đồng/chục.

Theo thống kê, toàn tỉnh Trà Vinh trồng trên 26.000 ha dừa với gần 7 triệu cây; trong đó diện tích cho trái gần 22.000 ha, sản lượng 444 triệu trái/năm, tập trung nhiều nhất ở huyện Càng Long, Tiểu Cần và Cầu Kè. Hiện, toàn tỉnh Trà Vinh có diện tích dừa hữu cơ đạt gần 5.000 ha, với sản lượng trên 78.500 tấn trái/năm.

Nông dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre thực hiện mô hình "con tôm ôm cây lúa". Ảnh: Chương Đài - TTXVN

Nông dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre thực hiện mô hình "con tôm ôm cây lúa". Ảnh: Chương Đài - TTXVN

Chương Đài – Thanh Hòa - Phúc Hậu/TTXVN

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/mo-loi-tu-duy-kinh-te-nong-nghiep-bai-2-bat-nhip-xu-the/292457.html