Mở rộng không gian diễn xướng để bảo tồn di sản văn hóa dân gian
Theo PGS. TS. NGUYỄN XUÂN ĐỨC, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, chúng ta đã có được một kho tàng văn hóa dân gian đa dạng về loại hình, giàu có về số lượng, phong phú về sắc thái; đáng chú ý, có 3 di sản văn hóa dân gian đã được UNESCO vinh danh đang cần được bảo tồn, phát huy giá trị trong cuộc sống mới.
Gắn bó với đời sống nhân dân lao động
- Tính đến nay, Việt Nam đã có 15 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại và Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp; 3 di sản văn hóa dân gian nằm trong số này có những giá trị đặc sắc nào, thưa ông?

- 3 di sản văn hóa dân gian được UNESCO vinh danh gồm dân ca ví giặm xứ Nghệ, dân ca quan họ Bắc Ninh và đờn ca tài tử Nam Bộ. Cả 3 di sản đều đặc sắc, bởi nó đại diện cho 3 giai đoạn khác nhau, 3 khu vực khác nhau của sự phát triển văn hóa, văn nghệ dân gian. Dân ca ví giặm là loại hình dân ca cổ nhất gắn với lao động, hình thành trong lao động. Dân ca quan họ Bắc Ninh thì gắn với lễ hội, phát triển và tiếp biến cùng lễ hội. Đờn ca tài tử là dân ca của nhiều vùng văn hóa gặp nhau tại Nam Bộ.
Nói 3 giai đoạn hoặc 3 thời kỳ hình thành, phát triển là bởi dân ca ra đời trong lao động sản xuất, ban đầu là những tiếng “hò dô ta” tạo nhịp nhàng cho quá trình lao động, dần dà góp phần tạo sảng khoái cho người lao động; khi đời sống lên cao, lễ hội ra đời và từ đó dân ca lễ hội phát triển.
- Ông có thể chia sẻ thêm về quá trình hình thành và phát triển của 3 di sản dân gian này trong đời sống cộng đồng?
- Văn hóa, văn nghệ dân gian hình thành và phát triển từ xã hội nguyên thủy; đến thời kỳ phong kiến tự chủ, cùng với sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học, chuyên nghiệp, cung đình, văn hóa dân gian vẫn tồn tại và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa - xã hội, đặc biệt là với quần chúng lao động.
Quá trình hình thành và phát triển 3 di sản dân ca trên không nằm ngoài quy luật đó; với ví giặm xứ Nghệ, những ngày đầu thành lập, loại hình dân ca này chưa có màu sắc biểu diễn, người tham gia vẫn quần vải áo nâu, nón lá đội đầu, vừa lao động vừa ca hát. Còn dân ca quan họ, ngay từ đầu, tính chất trình diễn đã khá rõ, các liền chị liền anh đã quần là áo lượt ngồi trên thuyền rồng, nón lọng để cùng giao duyên.
Đờn ca tài tử ra đời từ sự sáng tạo giữa nhã nhạc cung đình Huế và dân ca Nam Bộ, được dân tứ chiếng trên vùng đất Nam Bộ hồ hởi đón nhận; người lao động cùng ca hát vào giờ giải lao, bên bờ kinh rạch, sau này là những cuộc gặp gỡ trong xóm ngoài làng, hoặc lễ, Tết.

Biểu diễn quan họ đầu xuân. Ảnh: Thanh Lâm
Sự khác biệt của đờn ca tài tử Nam Bộ so với hai loại hình dân ca xứ Nghệ và quan họ Bắc Ninh là sự xuất hiện của nhạc đệm, nhạc cụ; ở Bắc Bộ, khi dân ca được sân khấu hóa như chèo mới có đạo cụ, nhạc cụ nhưng chỉ là nhạc cụ truyền thống như trống, đàn nguyệt, nhị, đàn bầu… Trong khi đó, nhạc cụ cho đờn ca tài tử không chỉ có đàn kìm, đàn cò truyền thống mà còn có cả guitar phím lõm, guitar Hawaii, violin…
Mở rộng môi trường diễn xướng
- Như ông vừa nói, việc bảo tồn di sản quan họ Bắc Ninh và đờn ca tài tử Nam Bộ không khó khăn vì các di sản này vẫn có môi trường diễn xướng?
- Các hoạt động trình diễn, biểu diễn, lan tỏa giá trị dân ca quan họ Bắc Ninh hàng năm vẫn được tổ chức định kỳ cùng lễ hội, mặc dù không gian diễn xướng đã thay đổi. Rõ nhất là trang, y phục, nhạc cụ, hiểu rộng hơn là cuộc tụ hội của trai gái vui xuân chứ không bó hẹp trong hình thức những nhóm người hát đối đáp kết nghĩa như xưa. Cũng do lễ hội và nhu cầu du xuân gặp gỡ của con người vẫn diễn ra nên quan họ vẫn còn đất sống. Với điểm mở đó, bảo tồn dân ca quan họ được xem là không mấy khó khăn.

Nghệ nhân đờn ca tài tử truyền nghề cho thế hệ sau. Nguồn: BND
Về đờn ca tài tử, di sản này cũng đang tự bảo tồn. Bản thân đờn ca tài tử từng tồn tại trong sự thay đổi, bổ sung, do ra đời muộn lại mang phong cách tài tử, phóng túng, dễ thích ứng với nhiều không gian diễn xướng. Tính mở, tính khả biến của đờn ca tài tử khá rộng. Vì vậy, để khuyến khích đờn ca tài tử phát triển sâu rộng hơn, nên lập các câu lạc bộ, tổ chức liên hoan, đặc biệt đưa đờn ca tài tử vào môi trường lễ hội…, tức là mở rộng (chuyển dịch) không gian thực hành của đờn ca tài tử sang lễ hội. Trên thực tế, điều này đã và đang diễn ra một cách tự phát.
- Việc bảo tồn ví giặm xứ Nghệ thì sao, thưa ông?
- Với ví giặm xứ Nghệ, việc bảo tồn khó khăn hơn. Sau quá trình nghiên cứu, các nhạc sĩ xứ Nghệ đã chỉ ra được bản chất của ví giặm có thuộc tính ngâm vịnh, giai điệu du dương lắng đọng kết hợp phương pháp phổ thơ dân gian dựa trên cơ sở âm sắc dấu giọng của phương ngữ Nghệ Tĩnh. Đây là lối hát tự do, không có tiết tấu theo ô nhịp, người hát co giãn tùy hứng; hát trong lao động thì phóng túng, tự do, hát trong hội hè thì theo lề lối.

Tiết mục “Giao duyên phường vải” dự Liên hoan các CLB dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh. Nguồn: baohatinh.vn
Trên cơ sở đó, những năm gần đây, chính quyền hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã cho thành lập các câu lạc bộ dân ca ví giặm, góp phần truyền dạy cho thế hệ trẻ và đưa loại hình dân ca này sống lại trong đời sống cộng đồng ở những môi trường diễn xướng mới, như lễ, Tết, đám cưới, tiệc vui… Dĩ nhiên nhiều lời cổ được tôn trọng, đôi khi do ngẫu hứng, người hát pha thêm âm sắc cho phù hợp môi trường diễn xướng mới, song vẫn giữ đúng linh hồn của ví giặm. Theo tôi, ngoài việc thành lập các câu lạc bộ vẫn cần phát huy những môi trường tụ hội mới để dân ca xứ Nghệ có không gian thực hành.
Xét cho cùng, việc phát huy các di sản văn hóa dân gian nói trên không chỉ là bảo tồn cho đúng giá trị nguyên bản, mà còn phải phát triển thêm các giá trị tốt đẹp để làm phong phú đời sống tinh thần của người dân. Đây là một quá trình dài, không đơn giản, cần có thời gian và sự chung tay của các cấp quản lý và quần chúng nhân dân.
- Xin cảm ơn ông!











