Một góc nhìn về con người và vùng đất Sài Gòn - Nam Kỳ xưa
Cuốn sách 'Khắc họa bức tranh lịch sử Nam Kỳ' mang đến cho độc giả góc nhìn khác về con người và vùng đất Nam Kỳ xưa thông qua những ghi chép về các sự kiện lịch sử, đặc biệt là cùng với gần 150 tranh/ảnh/bản đồ sống động, có giá trị, trong đó có 24 trang in tranh/ảnh màu và một số hình ảnh lần đầu tiên được giới thiệu.
Với nguồn sử liệu phong phú về nội dung và khối lượng lớn tranh ảnh quý giá, cuốn sách diễn giải những câu chuyện lịch sử diễn ra trên đất Nam kỳ xưa kể từ thời Gia Long, Minh Mạng, Lê Văn Duyệt cho đến khi người Pháp xâm lăng và thiết lập chế độ thuộc địa ở Nam kỳ và chế độ bảo hộ ở Bắc kỳ và Trung kỳ của vương quốc Đại Nam (nay là Việt Nam).
Bạn đọc sẽ lần lượt khám phá các giai đoạn lịch sử và cả những hình ảnh quý giá về Nam Kỳ một thời qua góc nhìn của người phương Tây, cụ thể:
Từ lúc Nguyễn Ánh ẩn náu ở Gia Định trước các cuộc tấn công của quân Tây Sơn, tại đây người Pháp và người Gia Định đã góp công lớn giúp Nguyễn vương dấy nghiệp và khôi phục cơ đồ, thống nhất sơn hà. Gia Định cũng là nơi tạo ra thứ quyền lực địa phương đầy thách thức khiến vua Minh Mạng hao tâm hóa giải.
Vào hậu bán thế kỷ 19, Đông Á nói chung, và Đại Nam nói riêng, đối diện với họa Tây xâm. Sau khi nổ súng tấn công vịnh Đà Nẵng năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha kéo quân vào tấn công Nam kỳ và lần lượt hạ thành Gia Định, thiết lập “phòng tuyến chùa” từ Sài Gòn đến Chợ Lớn tiến tới hạ đại đồn Chí Hòa, chiếm Mỹ Tho… và chiếm trọn ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, sau này thêm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ của Đại Nam.
Năm 1874, Hòa ước Giáp Tuất được ký kết buộc triều đình Huế giao trọn Nam kỳ lục tỉnh cho người Pháp. Sau đó, Pháp buộc triều đình Huế ký liên tiếp hai bản Hòa ước Quý Mùi - 1883 và Hòa ước Giáp Thân – 1884, biến Bắc kỳ và Trung kỳ của Đại Nam trở thành xứ bảo hộ của người Pháp.
Đến năm 1887, Liên bang Đông Dương được thành lập, đứng đầu là Toàn quyền Đông Dương, cai quản xứ thuộc địa và hai xứ bảo hộ của Đại Nam, kể cả vương quốc Cao Miên; đặt thủ phủ tại Sài Gòn (Nam kỳ), đến năm 1902 mới dời ra Hà Nội.
Nam kỳ tuy không còn là trung tâm quyền lực nhưng vẫn là thủ phủ kinh tế của Liên bang. Với Sài Gòn là trung tâm đô thị và quyền lực của chính quyền thực dân, là cái nôi của báo chí Việt Nam buổi ban đầu.
Giai đoạn 1923-1926 chứng kiến làn sóng di cư đổ về Sài Gòn, trong số đó có nhiều trí thức Tây học và nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, những ký giả lão làng dùng ngòi bút của mình đấu tranh và tạo ra những cuộc đối đầu công khai chống chính quyền thực dân.
Sài Gòn cũng bị cuốn vào cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vài năm sau đó, giới kinh doanh, mua bán làm ăn thua lỗ, dẫn đến phá sản và đời sống người dân Sài Gòn lâm vào cảnh lao đao, từng dòng người dắt díu nhau lần lượt rời đi, người Tây và Hoa kiều về nước, người Việt tạm lui về vùng ven Gò Vấp, Phú Nhuận hoặc về quê cầm cự kiếm sống mong chờ cuộc đại khủng hoảng nhanh chóng qua đi, để trở lại Sài Gòn.
Trong cơn đại khủng hoảng, người Sài Gòn cố gắng cầm cự chờ đợi trạng thái bình thường mới, và cũng chính trong lúc ngặt nghèo đó người Sài Gòn vẫn giữ được tinh thần hào sảng, sẻ chia trách nhiệm cộng đồng bằng nhiều hình thức từ thiện khác nhau…
“Khắc họa bức tranh lịch sử Nam Kỳ” là cuốn sách viết cho đại chúng với giọng văn mềm mại mà vẫn đảm bảo nguồn trích dẫn rõ ràng, nội dung trình bày có lớp lang, bày bản, song song với những câu chuyện là nhiều tranh ảnh quý minh họa, giúp góp thêm vài nét chấm phá cho bức tranh tổng thể về Nam Kỳ nói chung và Sài Gòn nói riêng.
Đặc biệt, khi in lại tranh/ảnh xưa, ngoài những dòng chú thích nội dung tranh/ảnh, tác giả cũng cung cấp thêm các thông tin: Bản phác thảo của ai, hình họa của ai, và ai là thợ khắc… nhằm góp phần đưa ra ánh sáng tên tuổi những nghệ sĩ giúp lưu giữ hình ảnh Việt Nam trong quá khứ, qua đó có một cái nhìn rộng hơn về lịch sử nghệ thuật Việt Nam, trong đó những nghệ sĩ phương Tây có dự phần, dù trực tiếp hay gián tiếp.
Minh Châu