Mùa xuân - nguồn thơ bất tận
Văn chương cổ điển Việt Nam (mở đầu từ thời Lý) đã để lại nhiều bài thơ xuân có sức sống bền lâu: Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) của Thiền sư Mãn Giác (1052-1096); Xuân hiểu (Sớm xuân) của Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308); Trại đầu xuân độ (Bến đò xuân đầu trại) của Nguyễn Trãi (1380-1442) hay những câu thơ xuân đặc sắc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820). Giữa nhà thơ với mùa xuân có mối giao cảm thật nhạy bén. Năm nào mùa xuân cũng về, nhưng vẻ đẹp tân xuân khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng: 'Thụy khởi khải song phi/Bất tri xuân dĩ quy/Nhất song bạch hồ điệp/ Phách phách sấn hoa phi'. Dịch: Ngủ dậy mở cửa sổ/Không hay xuân đã về/Một đôi con bướm trắng/Bay bay đến cành hoa (Xuân hiểu-Trần Nhân Tông)…
Tiếp nối mạch thơ xuân của các nhà thơ cổ điển, Thơ Mới (1932-1945) đã đem đến nguồn sống dào dạt chưa từng thấy khi diễn tả niềm say đắm sự sống, tình yêu và mùa xuân. Nữ thi sĩ Anh Thơ (1918-2005) trong tập Bức tranh quê (1941) có đến bảy bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân và Tết: Chiều xuân, Ngày xuân, Ðêm xuân, Ðêm trăng xuân, Chợ ngày xuân, Chiều ba mươi Tết, Ngày Tết. Những vần thơ của bà giản dị, vẽ ra bức tranh đậm đà hương sắc làng quê qua sinh hoạt của người dân. Ðây là cảnh đêm 30 Tết: “Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục/ Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn/ Ðĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen nức/ Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm”. Còn đây là cảnh ngày Tết như bừng lên sức sống mới nơi làng quê trì đọng: “Ngoài đường ngõ bùn lầy theo nước chảy/ Thằng cu con quần đỏ cưỡi lưng bà/ Các cô gái đội vàng hương ôm váy/ Miệng tươi cười mừng tuổi những người qua” (Ngày Tết). Ðoàn Văn Cừ (1913-2004), trong tập thơ Thôn ca (1944) đậm đà chất “chân quê” có đến mười bài thơ về mùa xuân và Tết: Nắng xuân, Mùa xuân, Năm mới, Tết, Chơi xuân, Chợ làng vào xuân, Chợ Tết, Tết quê bà, Ðám cưới mùa xuân, Ðám hội. Nổi tiếng nhất là bài thơ Chợ Tết - một bức tranh vẽ phiên chợ bằng thơ qua “ngòi bút dồi dào mà rực rỡ”. Một phiên chợ Tết hiện ra từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, từ mở đầu đến vãn chợ thật vô cùng sống động, toát lên khung cảnh yên bình, vẻ đẹp giản dị của những người “nhà quê” chất phác, thật thà. Cả bài thơ như một bức tranh toàn bích đầy rẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc tươi vui. Người đọc nhiều thế hệ yêu thích và truyền tụng bài thơ Chợ Tết vì niềm vui sống - một thứ men say từ cảnh đời bình dị.
Trên thi đàn Thơ Mới xuất hiện gần như cùng thời điểm ba bài thơ xuân: Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính (1937), Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử (1942) và Xuân rụng của Xuân Diệu (1944). Rất ngẫu nhiên mà tên gọi và nội dung của ba bài lại trùng hợp với quy luật thời gian, trùng khớp với chu trình sinh học của vạn vật trong tự nhiên. Sau câu thơ có tính định đề “Mùa xuân là cả một mùa xanh”, bài thơ Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính mở ra môt không gian xanh vô tận. Từ màu xanh của “giời ở trên cao”, “lá ở cành”, “lúa ở đồng”, “cỏ nằm trên mộ”, “lũy tre làng”, cho đến “cái thắt lưng xanh”. Nếu chỉ xét về phương diện miêu tả, việc nhận diện mùa xuân qua nét đặc trưng của nó như thế cũng thật thần tình. Nhưng quan trọng hơn, ý vị hơn là nhà thơ gợi ra cuộc hò hẹn giữa mùa xuân. Mối tình mới mẻ ấy như còn bỡ ngỡ, như e ấp mà háo hức, hòa hợp với ngày xuân trong veo, tràn đầy nhựa sống.
Nếu Mùa xuân xanh đem đến cảm giác nhẹ nhàng thư thái trọn vẹn thì Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử buộc ta phải lắng lại, nghĩ ngợi bâng khuâng. Mặc dù trong cảnh sắc mùa xuân có nắng ửng vàng, giàn thiên lý đưa hương và những cô gái thơ ngây đang ca hát, nhưng cả bài thơ đem đến một cảm giác buồn thương, nhớ tiếc. Cùng lúc nghe tiếng hát hồn nhiên yêu đời của thiếu nữ, lòng thi nhân đã liên tưởng tới “ngày mai”, khác với hôm nay, mỉm một nụ cười buồn: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”. Từ ý nghĩ này đã dẫn đến dòng liên tưởng và hoài niệm của “khách xa” nhớ về một bóng hình dĩ vãng, một tình yêu không tròn trong góc khuất kí ức: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín/Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng/Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Mùa xuân chín khi cảnh vật đã phát triển tới đỉnh cao, sắp chuyển sang trạng thái mới, đem lại cảm giác bâng khuâng, nhớ tiếc cái đẹp và sự phôi pha ngay trong lúc nó đang thịnh vượng nhất, gắn liền với kỷ niệm “chín nẫu” trong lòng người.
Với hồn thơ “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”, Xuân Diệu đã từng cất lên tiếng hát ca ngợi mùa xuân chằm bặp trong bài Xuân không mùa . Với ông: “Kể chi mùa, thời tiết với niên hoa/Tình không tuổi và xuân không ngày tháng”. Ðồng thời, thơ về mùa xuân của ông cũng chứa chan cảm xúc nhớ tiếc, buồn thương khi xuân tàn, điển hình là bài thơ Xuân rụng: “Sắc tàn hương nhạt, mùa xuân rụng/Những mặt hồng chia rẽ hết cười/Ðỡ lấy đài xiêu, nưng lấy nhị/Hồn ơi, phong cảnh cũng là người!… Trên đồng lỏng lẻo khói giờ cơm/Y lúc sao êm hiện mấy chòm/Thần chết thướt tha nương bóng héo/Bắt đầu đi nhặt những hồn thơm”. Những “hồn thơm” của hoa và của người cuối cùng cũng sẽ hết thời xuân xanh, để rồi chín nẫu, rụng tan vào cõi vô thường.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, hầu như nhà thơ nào cũng có thơ về mùa xuân. Nhưng điển hình là hai tác giả Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, những vần thơ chúc Tết của Bác vang lên như hồi kèn thúc giục đồng bào cả nước chiến đấu vì Ðộc lập, Tự do. Từ bài thơ chúc Tết đầu tiên (1947) đến bài thơ cuối cùng: Mừng xuân 1969 đều tràn đầy cảm xúc yêu nước thương nòi, ý chí quyết chiến quyết thắng. Năm 1947, Bác viết bài thơ Chúc năm mới 1947, mở đầu cho mạch thơ chúc Tết: “Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió/ Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông/ Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến/ Chí ta đã quyết lòng ta đã đồng/ Tiến lên chiến sĩ!Tiến lên đồng bào/ Sức ta đã mạnh, người ta đã đông/ Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi/ Thống nhất độc lập nhất định thành công!”. Trước lúc đi xa, Người gửi lại bài thơ Mừng xuân 1969 với dự cảm chiến thắng: “Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/ Vì Ðộc lâp, vì Tự do/ Ðánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/ Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào/ Bắc -Nam sum họp xuân nào vui hơn!”. Ðặc điểm xuyên suốt trong các bài thơ chúc Tết của Bác là niềm tin vào tương lai cách mạng, vào sức mạnh đoàn kết dân tộc và ở một số bài là dự cảm thiên tài từ trí tuệ anh minh, am hiểu lẽ vần xoay thời cuộc và quy luật biện chứng cách mạng.
Mùa xuân gần như có mặt hầu khắp ở các tập thơ của Tố Hữu. Thơ xuân của ông trong những năm cả nước đánh Mỹ nóng bỏng tính thời sự, chan chứa tình yêu đất nước, Nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà ở giai đoạn ấy, cả nước luôn háo hức đợi chờ nghe trên sóng phát thanh thơ chúc Tết của Bác cùng thơ Xuân Tố Hữu để tự hào về chiến công đánh giặc và xây dựng chủ nghĩa xã hội năm qua, đón đợi chủ trương chiến lược năm mới. Nhà nhà, người người dạt dào niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng. Hòa quyện giữa trữ tình và chính trị, những bài thơ xuân của Tố Hữu “thực sự đem lại niềm sung sướng cho tâm và trí người đọc” (Xuân Diệu), cắm những mốc quan trọng trong đời thơ ông: Bài ca mùa xuân 1961, Bài ca xuân 1968, Với Ðảng, mùa xuân…
Thơ Xuân ở mỗi thời đại thi ca có nét độc đáo riêng. Trong thơ cổ điển, nhiều bài diễn tả tới tầng sâu của triết lý sinh diệt, của quy luật vũ trụ tuần hoàn. Thơ Xuân trong Thơ Mới mang cảm nhận riêng đặc sắc của mỗi tâm hồn thi sĩ khi phát hiện ra cái “tôi” trữ tình vượt qua khuôn sáo, ước lệ của thơ cổ điển, đồng thời làm sống dậy sức sống mới từ cảnh và người quen thuộc. Thơ Xuân trong thơ ca cách mạng hiện đại lại mang cảm hứng trữ tình công dân, gắn liền với đời sống chính trị của dân tộc. Chung nhất, qua các chặng đường lịch sử, thơ về mùa xuân có nét xuyên suốt là thể hiện tình yêu tha thiết của các thế hệ nhà thơ với thiên nhiên bốn mùa, với đất nước và con người Việt Nam.
Nguồn Hưng Yên: http://baohungyen.vn/mua-xuan-nguon-tho-bat-tan-3178966.html