Nâng cao ý thức của người dân trong việc thu gom, xử lý rác thải thuốc bảo vệ thực vật
Để bảo vệ cây trồng, đem lại hiệu quả kinh tế và giảm thiệt hại do cỏ dại, sâu bệnh, nông dân đã sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không được quản lý và xử lý đúng cách sẽ tạo rủi ro đối với sức khỏe cộng đồng và ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên.
Theo số liệu thống kê quá trình sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 2015 - 2019 toàn tỉnh đã sử dụng tổng khối lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) là 897,8 tấn. Việc lạm dụng thuốc BVTV trong nông nghiệp có nguy cơ gây tác động trực tiếp đến hệ sinh thái nông nghiệp, diệt côn trùng và động vật hữu ích, làm biến đổi thế cân bằng tự nhiên của hệ sinh thái, gây đột biến gen đối với một số loại cây trồng. Bên cạnh đó, còn phát sinh một lượng lớn chất thải rắn nguy hại như bao bì, chai lọ đựng thuốc BVTV sau khi sử dụng, phần lớn lượng chất thải này không được thu gom và xử lý đúng quy định.
Trước đây, thói quen của nhiều nông dân là sau khi sử dụng thuốc BVTV thì vứt bừa bãi tại ruộng, kênh mương nội đồng. Để khắc phục tình trạng này, các địa phương đã huy động nhiều nguồn lực để đầu tư các bể chứa bao gói thuốc BVTV, trong đó phải kể đến mô hình đúc bể bê tông đựng vỏ thuốc BVTV sau khi sử dụng. Nhờ vậy, có hơn 2.000 bể bê tông đặt trên các tuyến đường trục giao thông nội đồng và bờ ruộng lớn. Sau khi lắp đặt, Hội Nông dân các xã đã phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể và ban điều hành các thôn tuyên truyền về tác hại của rác thải trên đồng ruộng; hướng dẫn người dân sử dụng thuốc BVTV theo nguyên tắc 4 đúng, phân loại rác thải để bỏ đúng nơi quy định. Tuy nhiên do tình hình thiên tai đã làm hư hỏng và cuốn trôi một số bể chứa nên số lượng còn lại chỉ đáp ứng bố trí trên khoảng 1/3 diện tích đất canh tác.
Mặc dù một số địa phương đã có hệ thống mạng lưới các bể chứa rác trên đồng ruộng nhưng nhiều người dân sử dụng thuốc BVTV không thực hiện việc thu gom sau sử dụng, vứt bừa bãi ra môi trường. Đây là nguyên nhân chính làm nguồn nước, môi trường bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Thay vì canh tác, phát quang ruộng vườn trước khi vào vụ mới bằng các dụng cụ nông nghiệp thì nông dân một số địa phương thường sử dụng thuốc trừ cỏ nhằm rút ngắn thời gian diệt cỏ. Sau khi sử dụng thuốc diệt cỏ xong, nông dân vẫn còn thói quen tự ý vứt bỏ bao gói thuốc BVTV một cách bừa bãi trên khe suối, nương rẫy, bờ ruộng. Điều đáng nói là đa số các hộ dân đều chưa nhận thức được những nguy hại về môi trường từ việc sử dụng thuốc diệt cỏ. Hiện nay trên địa bàn miền núi hầu hết người dân sử dụng thuốc BVTV để diệt cỏ khi trồng sắn, chuối, tuy nhiên mới chỉ có khoảng 50% người dân có ý thức sau khi sử dụng xong thì đào hố chôn, đốt, số còn lại thì vứt bừa bãi trên nương rẫy rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe, dễ phát sinh bệnh tật.
Bên cạnh ý thức của người dân trong sử dụng thuốc BVTV chưa cao thì hiện nay hầu hết các địa phương mới chỉ dừng lại ở việc thu gom, còn khâu vận chuyển và xử lý loại rác thải chưa được thực hiện đã và đang tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường. Bởi vỏ thuốc BVTV không phải là rác thải thông thường mà đó là chất thải nguy hại không được sử dụng vào các mục đích khác. Hiện nay nhiều địa phương xử lý rác thải thuốc BVTV theo hướng thông thường như chôn, đốt, thậm chí còn gom lẫn với rác sinh hoạt ở các bãi rác địa phương nên ngoài việc thu gom thì vấn đề xử lý chất thải thuốc BVTV là rất quan trọng. Hiện chỉ mới có 2 huyện Vĩnh Linh và Cam Lộ đã thực hiện thu gom xử lý loại chất thải nguy hại này.
Việc thu gom, vận chuyển, xử lý được thực hiện đảm bảo theo đúng quy định đã tác động một phần lớn đến ý thức của người dân địa phương trong việc thải bỏ rác và vứt rác đúng nơi quy định. Tùy tình hình thực tế tại mỗi địa phương và lượng sử dụng thuốc BVTV mà có tần suất thu gom phù hợp. Cần xác định, rác thải thuốc BVTV chủ yếu là bao bì, nhựa và thủy tinh, đây là những rác thải cực kỳ khó phân hủy, hoặc không phân hủy được, trong đó còn chứa tồn dư một lượng thuốc BVTV nhất định gây ảnh hưởng đến môi trường, nhất là đối với nguồn nước nên việc thu gom và xử lý là hết sức cần thiết. Do đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về hậu quả của các loại hóa chất BVTV đối với môi trường cũng như sức khỏe con người, từ đó có ý thức sử dụng một cách hợp lý, không nên quá lạm dụng các loại thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp để giảm nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Qua kết quả điều tra, lượng bao bì thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh đang tồn đọng tại các bể chứa có thể thu gom xử lý tại 72 xã với khối lượng bao bì thuốc BVTV tồn đọng ước tính là 8 tấn. Trên cơ sở dữ liệu thu thập, ngành tài nguyên - môi trường đã lập phương án thu gom và xử lý phù hợp. Theo đó, mỗi xã chọn 1-3 điểm tập kết chất thải nguy hại. Điểm tập kết nằm ở khu vực giao thông thuận lợi. Mỗi xã sẽ thành lập đội thu gom địa phương để thực hiện thu gom bao gói thuốc BVTV vận chuyển tới điểm tập kết và đưa đi xử lý.
Năm 2021, Sở Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng phương án thu gom, vận chuyển và xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng trên địa bàn tỉnh nhằm thực hiện công tác quản lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng từ khâu thu gom, vận chuyển, xử lý đảm bảo triệt để, an toàn góp phần bảo vệ môi trường. Việc thu gom, vận chuyển, xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng tuân thủ đúng quy định về quản lý chất thải nguy hại. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tự chịu trách nhiệm thu gom, vận chuyển, xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng. Cấp ủy, chính quyền và các ngành liên quan tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, vận động, tập huấn, hướng dẫn nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy, hành động của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các hộ gia đình nông dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp tự giác thực hiện triệt để, hiệu quả việc quản lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng để công tác này được thực hiện đồng bộ, hiệu quả.