Nâng cấp công nghệ thu thuế đối với Google, Facebook, TikTok...

Thực tế cho thấy số thu thuế nhà thầu nước ngoài từ các công ty cung cấp dịch vụ số xuyên biên giới như: Google, Facebook, TikTok... trong ba năm gần đây có sự biến động nhưng chưa ổn định.

Trước khi Luật Quản lý thuế số 38 và các văn bản hướng dẫn có hiệu lực, việc quản lý thuế đối với các nhà cung cấp dịch vụ số xuyên biên giới (Google, Facebook, TikTok...) tại Việt Nam được thực hiện theo cơ chế thuế nhà thầu. Theo quy định của Thông tư số 103, các tổ chức trong nước khi mua dịch vụ, hàng hóa hoặc phân phối dịch vụ của các nhà cung cấp nước ngoài (NCCNN) có trách nhiệm khấu trừ thuế và nộp thay cho các nhà cung cấp này.

Tổng hợp kinh nghiệm quốc tế và rà soát mô hình hoạt động của các tập đoàn công nghệ lớn để đưa ra những giải pháp quản lý thuế điện tử hiệu quả là yêu cầu cấp thiết trong kỷ nguyên số - Ảnh: TCT

Tổng hợp kinh nghiệm quốc tế và rà soát mô hình hoạt động của các tập đoàn công nghệ lớn để đưa ra những giải pháp quản lý thuế điện tử hiệu quả là yêu cầu cấp thiết trong kỷ nguyên số - Ảnh: TCT

Tuy nhiên, cơ chế thuế nhà thầu đã bộc lộ những điểm yếu trong việc quản lý nguồn thu từ các NCCNN, đặc biệt là khi các giao dịch thương mại điện tử (TMĐT) diễn ra hoàn toàn qua mạng internet, trực tiếp đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Chính sách thuế này không thể bao quát hết nguồn thu từ các giao dịch xuyên biên giới, do đó một số NCCNN có thể dễ dàng tránh né nghĩa vụ thuế, khi không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Thực tế cho thấy số thu thuế nhà thầu nước ngoài từ các công ty cung cấp dịch vụ số xuyên biên giới trong ba năm gần đây có sự biến động nhưng chưa ổn định, với các mức thu thuế lần lượt là 1.168 tỉ đồng (2019), 1.144 tỉ đồng (2020) và 1.591 tỉ đồng (2021). Điều này cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế trong việc thu thập thuế đầy đủ từ các nhà cung cấp dịch vụ số nước ngoài.

Trước những khó khăn và hạn chế trong việc quản lý thuế đối với TMĐT xuyên biên giới, Tổng cục Thuế đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu thuế, đặc biệt là đối với các NCCNN không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Theo đó, việc triển khai Cổng thông tin điện tử dành cho NCCNN chính thức đi vào hoạt động từ ngày 21.3.2022 cho phép NCCNN thực hiện các thủ tục thuế từ xa, bao gồm đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, và điều chỉnh thông tin đăng ký thuế một cách nhanh chóng và thuận tiện.

Đến nay, đã có 120 NCCNN đăng ký, khai thuế và nộp thuế. Tổng số thuế các NCCNN đã khai - nộp trực tiếp qua cổng TTĐT trong năm 2024 là 8.687 tỉ đồng, tăng 26% so cùng kỳ năm 2023, vượt 74% so với dự toán.

Dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác quản lý thuế đối với TMĐT xuyên biên giới, song thực tế cho thấy không ít khó khăn và thách thức vẫn tồn tại. Những vướng mắc này chủ yếu xoay quanh ba vấn đề chính: chính sách thuế, xây dựng cơ sở dữ liệu và công tác thanh tra, kiểm tra.

Mặc dù đã có những cải tiến lớn trong hệ thống pháp lý từ khi Luật Quản lý thuế số 38 có hiệu lực, công tác thu thuế đối với các giao dịch TMĐT xuyên biên giới vẫn đối mặt với nhiều bất cập. Một trong những vấn đề đáng chú ý là các quy định về hóa đơn đối với NCCNN. Vì các nhà cung cấp này không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, việc cấp và quản lý hóa đơn, chứng từ thuế gặp phải không ít khó khăn.

Bên cạnh đó, nhiều hoạt động TMĐT xuyên biên giới như sàn giao dịch TMĐT hay các dịch vụ quảng cáo trực tuyến vẫn chưa được quy định rõ ràng trong hệ thống pháp lý về nghĩa vụ thuế. Mặc dù các hoạt động này chịu sự quản lý của các bộ, ngành như Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, nhưng vẫn thiếu các quy định về việc cấp phép kinh doanh cũng như quy trình cấp mã số thuế cho các NCCNN. Điều này khiến việc quản lý thu thuế trở nên phức tạp, đặc biệt là đối với các mô hình kinh doanh mới phát sinh.

Công tác xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu là một yếu tố quan trọng giúp cơ quan thuế nhận diện và giám sát các giao dịch TMĐT xuyên biên giới. Tuy nhiên, việc kết nối dữ liệu giữa các cơ quan, bộ, ngành liên quan và Tổng cục Thuế vẫn gặp phải không ít khó khăn. Dữ liệu thu thập từ các đơn vị này vẫn chưa có định dạng thống nhất, cách thức khai thác dữ liệu còn nặng tính thủ công và chưa tự động hóa hoàn toàn.

Điều này dẫn đến việc phân tích, sử dụng dữ liệu chưa hiệu quả, từ đó ảnh hưởng đến khả năng giám sát và quản lý thu thuế. Ngoài ra, một số NCCNN cũng chưa phối hợp cung cấp thông tin do các yếu tố bảo mật, đặc biệt là trong các giao dịch với người dùng tại Việt Nam. Việc thiếu hụt thông tin chính xác và đầy đủ càng khiến cho công tác quản lý thuế gặp khó khăn.

Cùng với đó, công tác thanh tra, kiểm tra nghĩa vụ thuế đối với các nhà cung cấp dịch vụ xuyên biên giới gặp không ít thách thức, đặc biệt là khi các NCCNN không có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Việc thực hiện các cuộc thanh tra trực tiếp đối với những nhà cung cấp này trở nên phức tạp và khó khăn, bởi họ chỉ hoạt động trên nền tảng số và không có văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Các cơ quan thuế gặp khó khăn trong việc xác minh các thông tin về doanh thu của các NCCNN, từ đó ảnh hưởng đến việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm thuế. Hơn nữa, khi các nhà cung cấp dịch vụ hoạt động trên nền tảng trực tuyến toàn cầu, việc theo dõi và giám sát giao dịch trở thành thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng, khi mà các giao dịch này thường xuyên thay đổi và có tính chất toàn cầu, xuyên biên giới.

Trước những khó khăn trên, Tổng cục Thuế đang triển khai một loạt các giải pháp đồng bộ để cải thiện công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT, đặc biệt là các giao dịch xuyên biên giới. Những giải pháp này không chỉ hướng tới việc hoàn thiện khung pháp lý, mà còn tập trung vào ứng dụng công nghệ, cải tiến cơ sở dữ liệu.

Một là tiếp tục hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn, kinh nghiệp quốc tế trong quản lý thuế đối với TMĐT để từ đó tham mưu, đề xuất các giải pháp xây dựng chính sách thuế, quản lý thuế và các Luật liên quan đối với hoạt động TMĐT tại Việt Nam.

Hai là tiếp tục đổi mới phương thức quản lý phù hợp với với tinh thần đổi mới, sáng tạo trong kỷ nguyên chuyển đổi số: Xây dựng cơ sở dữ liệu Big data từ các các ngân hàng, các ví điện tử, các đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến, các tổ chức thẻ quốc tế, nghiên cứu áp dụng công nghệ (trong đó có AI) để nhận diện thanh toán của hoạt động TMĐT xuyên biên giới, từ đó làm cơ sở đối soát dữ liệu kê khai của người nộp thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ vào ngân sách nhà nước; đồng thời, nhận diện NCCNN có phát sinh doanh thu tại Việt Nam nhưng chưa đăng ký thuế để đưa vào diện quản lý thuế.

Ba là cơ quan thuế tiếp tục phân tích cơ sở dữ liệu NCCNN kê khai, nộp thuế qua Cổng thông tin điện tử dành cho NCCNN; cơ sở dữ liệu kê khai các tổ chức Việt Nam khấu trừ, nộp thay NCCNN trong hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) và kết hợp dữ liệu từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng kế hoạch và tổ chức thanh kiểm tra điểm trọng điểm đối với tổ chức Việt Nam khấu trừ thay NCCNN tại Việt Nam.

Bốn là tổng hợp kinh nghiệm quốc tế và rà soát mô hình hoạt động của các tập đoàn công nghệ lớn để tham mưu báo cáo các cấp có thẩm quyền đàm phán để sửa đổi, bổ sung các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần để phù hợp với đặc điểm của các mô hình kinh doanh trong nền kinh tế số, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh, công bằng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Tuyết Nhung

Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/nang-cap-cong-nghe-thu-thue-doi-voi-google-facebook-tiktok-227605.html