Nâng tầm giá trị chè trung du
Từng được ví như 'linh hồn' của thương hiệu chè Thái Nguyên, chè trung du nay chỉ còn lại trên một phần nhỏ đất chè. Tuy nhiên, vẫn có những người âm thầm giữ lấy giống chè cổ như giữ một phần ký ức, giữ lại cốt cách riêng của đất chè. Họ kiên trì phục hồi, ứng dụng kỹ thuật, đa dạng hóa sản phẩm, để không chỉ 'giữ hồn' chè trung du mà còn nâng tầm giá trị của nó trên thị trường.

Gia đình chị Vi Thị Phương (Tổ trưởng Tổ nghề nghiệp sản xuất chè hữu cơ La Giang, xã Quang Sơn, Đồng Hỷ) vẫn duy trì trên 3.000m2 chè trung du, được chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP, hướng hữu cơ.
Theo nhiều tài liệu, giống chè trung du có nguồn gốc từ Phú Thọ, được cụ Đội Năm (tên thật là Vũ Văn Hiệt) cùng người dân Thái Nguyên mang về trồng tại xã Tân Cương (TP. Thái Nguyên) từ những năm 1920. Nhờ hợp khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp nên cây chè phát triển khỏe, cho chất lượng sản phẩm vượt trội.
Từ Tân Cương, nơi được coi là “thủ phủ” chè, giống chè trung du dần lan tỏa, được trồng rộng rãi tại nhiều địa phương trong tỉnh như Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Lương, Định Hóa…, góp phần hình thành những vùng chè nguyên liệu lớn trên địa bàn tỉnh.
Chè trung du có đặc trưng: lá nhỏ, thuôn dài, xanh thẫm; thân cây gốc xù xì. Khi chế biến, cánh chè có màu xanh đen, xoăn đều. Pha ra nước vàng óng như mật ong, thoảng hương cốm non, vị chát nhẹ đầu lưỡi nhưng ngọt hậu rất lâu, hương vị làm nên thương hiệu chè Thái Nguyên trứ danh. Tuy nhiên, theo thời gian, giống chè trung du dần bị thay thế bởi các giống chè cành mới có năng suất cao, mẫu mã đẹp.
Anh Nguyễn Thanh Dương, một người trồng chè lâu năm ở xóm Hồng Thái 2, xã Tân Cương, cũng từng băn khoăn giữa việc giữ hay bỏ giống chè trung du. Nhưng sau nhiều chuyến đi, nhiều cuộc thi chè và những phản hồi từ thị trường, anh quyết định giữ lại vườn chè trung du cổ của gia đình, cải tạo và chăm sóc kỹ lưỡng.
Từ tình yêu ấy, anh thành lập Hợp tác xã (HTX) chè trung du Tân Cương, chuyên sản xuất và phát triển sản phẩm từ giống chè bản địa này. Anh chia sẻ: Chè trung du trồng bằng hạt nên rất bền cây, chống chịu sâu bệnh, thời tiết khắc nghiệt tốt, có thể khai thác hàng chục, thậm chí hàng trăm năm. Đặc biệt, nó cho ra sản phẩm đậm vị, phù hợp với những khách hàng khó tính, những người vẫn nhớ mãi vị chát đậm, ngọt hậu của chè Thái Nguyên.
Hiện nay, vùng chè nguyên liệu của HTX chè trung du Tân Cương có hơn 20ha, trong đó chè trung du chiếm trên 50%. Nhiều sản phẩm đã có mặt trên thị trường như: Trà trung du Tân Cương thượng hạng, trà Tân Cương ướp sen Hồ Tây, trà tước thiệt Tân Cương… Mỗi tháng, HTX xuất bán 5-7 tấn chè búp khô, doanh thu khoảng 2 tỷ đồng.
Còn tại xã Quang Sơn (Đồng Hỷ), gia đình chị Vi Thị Phương, ở xóm La Giang, cũng đang sở hữu 6.000m3 chè, trong đó 50% diện tích chè trung du. Nhận thấy ưu thế vượt trội của chè trung du, chị đã trồng mới hơn 3 sào, một nửa trong đó là chè trung du gieo bằng hạt và cây giống.

Gia đình chị Vi Thị Phương trồng mới thêm 3 sào chè trung du.
Từ giống chè này, chị Phương áp dụng kỹ thuật canh tác hữu cơ, kết hợp chế biến đa dạng sản phẩm. Chị chia sẻ : So với chè lai, chè trung du mang lại giá trị cao hơn nhiều. Tôi có thể tận dụng từ búp non, lá bánh tẻ đến cả nụ hoa để làm ra các sản phẩm như: trà búp khô, trà bancha, hồng trà, nụ hoa trà, chè xào, dưa muối chè chiên... Giá bán dao động từ 200.000 đến 1.000.000 đồng/kg, tùy loại.
Xóm Khe Cốc (xã Tức Tranh, Phú Lương) hiện là một trong những vùng còn bảo tồn được diện tích chè trung du lớn, với hơn 200ha. Nhờ địa hình gồm những quả đồi “bát úp” thoai thoải, khí hậu ôn hòa, nơi đây đặc biệt phù hợp để giống chè bản địa này sinh trưởng và phát triển tốt hơn các giống chè lai khác.
Theo ông Tô Văn Khiêm, Giám đốc HTX chè an toàn Khe Cốc, nếu được chăm sóc như nhau, chè trung du tuy có năng suất thấp hơn một chút so với chè lai, nhưng đổi lại, chất lượng, giá thành vượt trội so với chè lai. Đặc biệt, hương cốm dịu nhẹ, vị ngọt sâu và hậu vị đậm đà, những đặc trưng làm nên thương hiệu chè Thái Nguyên trứ danh thì không giống chè nào có thể so sánh được với chè trung du về hương vị.
Hiện tại, HTX đang phát triển hơn 10 dòng sản phẩm khác nhau từ giống chè trung du như trà đinh, trà tôm nõn, trà móc câu, matcha trà xanh, túi lọc… Trong đó, các đơn hàng xuất khẩu và sản phẩm cao cấp đều được làm từ giống chè này, một minh chứng rõ ràng cho giá trị và vị thế mà chè trung du vẫn giữ vững trên thị trường.
Chè trung du là một trong hai giống chè cổ, quý hiếm của Việt Nam. Những năm 1985-1990, chè trung du chiếm tới 90% diện tích chè toàn tỉnh.
Tuy nhiên, do áp lực phát triển và chính sách khuyến khích trồng chè lai, đến năm 2024, giống chè này chỉ còn khoảng 17% trên tổng diện tích hơn 22.200ha chè trong toàn tỉnh, tập trung tại xã Tân Cương (TP. Thái Nguyên), xã La Bằng (Đại Từ), xóm Khe Cốc, xã Tức Tranh (Phú Lương)...
Dẫu vậy, tư duy làm chè của nhiều nông dân đang chuyển mình. Nhiều hộ dân quay lại bảo tồn, phát triển chè trung du theo hướng hữu cơ, kết hợp du lịch trải nghiệm, khai thác chiều sâu văn hóa vùng chè.
Theo bà Nguyễn Thị Ngà, Chủ tịch Hội Chè Thái Nguyên: Chè trung du không chỉ là cây công nghiệp, cây làm giàu, mà còn là kết tinh của văn hóa, lịch sử và đời sống lao động của biết bao thế hệ người làm chè. Vì thế, rất cần được bảo tồn, gìn giữ để không mai một theo thời gian. Những vùng chè đã được cấp chỉ dẫn địa lý càng cần được bảo vệ nghiêm ngặt, bởi đó là "chứng minh thư" cho thương hiệu chè Thái Nguyên trên thị trường trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, để giống chè trung du tiếp tục sống khỏe, vươn lên giữa thị trường nhiều cạnh tranh, người trồng chè cần được hỗ trợ cơ chế, vốn vay ưu đãi, cho đến khoa học kỹ thuật và đầu ra sản phẩm. Chỉ khi người nông dân yên tâm trồng chè, yêu chè, thì giống chè quý mới có thể phát triển bền vững.
Đầu năm 2025, tỉnh Thái Nguyên xây dựng Nghị quyết riêng về phát triển cây chè và văn hóa trà, hướng tới mục tiêu doanh thu đạt 1 tỷ USD (tương đương khoảng 25.000 tỷ đồng) vào năm 2030. Trong hành trình hiện thực hóa khát vọng ấy, bảo tồn và phát huy giá trị của giống chè trung du bản địa cần được nhìn nhận và đầu tư xứng tầm. Bởi giống chè ấy không chỉ quý ở giá trị kinh tế, mà còn là hồn cốt, đặc trưng không thể thay thế của vùng đất chè.
Nguồn Thái Nguyên: https://baothainguyen.vn/kinh-te/202506/nang-tam-gia-tri-che-trung-du-4612552/