Nền kinh tế có dư thừa nguồn lực?

TS. Bùi TrinhNguồn lực với nền kinh tế nói chung bao gồm con người, tiền bạc (vốn), tài nguyên đất đai và chính sách.

Về con người, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm khoảng 58% dân số vào năm 2011 đã xuống 49,8% vào năm 2021. Tuy nhiên, lao động đã qua đào tạo tăng lên từ 14,7% năm 2010 lên 26,1% vào năm 2021 trong tổng số lao động. Như vậy có thể thấy nguồn nhân lực là dồi dào.

Tuy nhiên, theo Sách trắng doanh nghiệp năm 2022 của Tổng cục Thống kê, số lao động trong khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 26% tổng lực lượng lao động; trong đó khu vực doanh nghiệp tư nhân chiếm 61%, khu vực FDI 31% và doanh nghiệp Nhà nước chiếm 8%.

Cùng với đó, năng suất lao động của Việt Nam tính theo sức mua tương đương thấp thứ hai ở Đông Nam Á (đứng sau Lào và chỉ hơn Campuchia). Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, năng suất lao động theo sức mua tương đương năm 2019 của Việt Nam bằng 7,64% mức năng suất của Singapore; bằng 19,53% của Malaysia; 37,92% của Thái Lan; 45,56% của Indonesia; 56,88% của Philippines; 88,05% của Lào. Tính theo sức mua tương đương, tăng trưởng về năng suất lao động bình quân giai đoạn 2010 - 2021 chỉ khoảng 4,8%/năm, trong khi GDP bình quân giai đoạn này tăng 6%/năm.

Về hiệu quả sản xuất, tính toán từ số liệu trong Sách trắng doanh nghiệp cho thấy, năm 2020, giá trị tăng thêm theo giá cơ bản chỉ chiếm 11% trong doanh thu thuần. Tỷ lệ chi phí trung gian trong doanh thu thuần là khoảng 89%. (Nếu tính theo giá trị sản xuất thì còn thấp nữa, vì giá trị sản xuất bằng doanh thu thuần cộng chênh lệch sản phẩm tồn kho và dở dang cuối kỳ trừ đầu kỳ trong khi theo niên giám thống kê thì khoản tồn kho này khá lớn). Tỷ lệ này thấp chứng tỏ hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khu vực doanh nghiệp thấp. Và trong 3 loại hình doanh nghiệp Nhà nước, ngoài Nhà nước và FDI, chỉ có doanh nghiệp FDI sử dụng đồng vốn và sản xuất kinh doanh hiệu quả, với tỷ lệ giá trị tăng thêm so với doanh thu thuần đạt 15%.

Số liệu cũng cho thấy, số doanh nghiệp có kết quả sản xuất kinh doanh và số doanh nghiệp có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi chiếm khá thấp. Điều này có nghĩa, về bản chất, số doanh nghiệp có đóng góp vào GDP không cao. Theo tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp, giá trị tăng thêm theo giá cơ bản của toàn bộ doanh nghiệp chỉ chiếm 44% trong GDP vào năm 2016, tăng lên 46% vào năm 2017 và đến năm 2020 lại chỉ còn 40%. Như vậy, 60% còn lại thuộc về các hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục, các hoạt động từ tiền ngân sách và khu vực kinh doanh của hộ gia đình.

Về vốn, cần phân biệt vốn cho tăng trưởng GDP và nguồn lực của nền kinh tế. Theo Hệ thống các tài khoản Quốc gia của Liên Hợp Quốc, nguồn lực cơ bản để đầu tư là tiết kiệm (saving) của nền kinh tế. Nếu tiết kiệm, cùng với chuyển nhượng vốn thuần vẫn không đủ thì sẽ phải đi vay để đầu tư. Trong một số trường hợp, việc đào bới đường sá vào mỗi dịp cuối năm, xây tượng đài, cổng chào, đầu tư xây dựng cơ bản bị đội vốn… và phụ thuộc vào FDI đều làm tăng GDP (theo nguyên tắc tính GDP) nhưng lại làm giảm khả năng tiết kiệm của nền kinh tế. Có nghĩa, GDP có thể tăng nhưng nguồn lực của nền kinh tế lại “teo đi”. Hơn nữa, mức độ chênh lệch giữa tiết kiệm, đầu tư và tích lũy từ năm 2013 đến nay ngày càng lớn cũng là do đầu tư không hiệu quả gây ra!

Như vậy có thể thấy nguồn lực của nền kinh tế nước ta không dư giả gì! Dân số đông nhưng năng suất lao động lại kém gần nhất khu vực. Vốn thì cơ bản đi vay nhưng sử dụng không hiệu quả. Trước thực tế này, cần bỏ tư duy thành tích ở mọi lĩnh vực và nguồn lực chính sách cần được đưa vào đúng chỗ để phát huy hiệu quả cao nhất.

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/chinh-sach-va-cuoc-song/nen-kinh-te-co-du-thua-nguon-luc-i337986/