Nên siết chặt tiêu chuẩn đào tạo Y khoa theo hướng nào?
Việc mở rộng khối ngành khoa học sức khỏe, đặc biệt là đào tạo bác sĩ đa khoa cần được xây dựng theo chuẩn rõ ràng và kiểm định chặt chẽ đúng chuyên môn.
Chủ trương không cho phép các trường đại học không chuyên đào tạo một số lĩnh vực (y khoa, luật) đang được dư luận quan tâm. Y khoa là ngành đòi hỏi chuẩn đầu ra đặc biệt cao nên việc đào tạo phải gắn chặt với bệnh viện thực hành, đội ngũ giảng viên chuyên sâu và hệ thống kiểm định độc lập. Việc chuẩn hóa điều kiện mở ngành được xem là cần thiết để bảo đảm chất lượng nhân lực y tế trong bối cảnh nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng.
Siết đào tạo ngành y cần dựa trên bức tranh tổng thể với định hướng phát triển bền vững
Theo Quy hoạch mạng lưới y tế thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam đặt mục tiêu mạng lưới cơ sở y tế từ trung ương đến địa phương đủ năng lực đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân tương đương với nước phát triển, thu nhập cao; phấn đấu đạt 35 bác sĩ trên 10.000 dân đến năm 2050 [1].
Chia sẻ về vấn đề này, bác sĩ Phùng Thị Hoàn - nguyên Phó trưởng khoa, Khoa cấp cứu và chống độc, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, Y khoa là ngành đặc thù yêu cầu chất lượng đào tạo phải rất cao, đòi hỏi các tiêu chuẩn và điều kiện mở ngành cũng nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Trong mỗi giai đoạn phát triển, khi nhu cầu nhân lực y tế tăng cao, việc mở rộng quy mô đào tạo là điều dễ hiểu ở nhiều quốc gia đang phát triển hệ thống y tế. Tuy nhiên, xét cho cùng, tốc độ mở rộng phải đi đôi với nhu cầu thực tiễn của xã hội và gắn chặt với yêu cầu chuyên môn nhân lực, đáp ứng được cả về số lượng lẫn chuyên môn.
Trong khối ngành khoa học sức khỏe, bên cạnh bác sĩ thì còn rất nhiều nhóm nghề quan trọng trong hệ thống y tế như đội ngũ điều dưỡng, kỹ thuật y học, hộ sinh, phục hồi chức năng, kỹ thuật hình ảnh, xét nghiệm,… Mỗi vị trí đều đóng vai trò rất cần thiết trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Hiện nay, thực tế cho thấy nhu cầu nhân lực lớn nhất đang tập trung ở ngành Điều dưỡng, trong khi nhiều cơ sở đào tạo lại chủ yếu đầu tư vào những ngành hot, dễ thu hút người học như Y khoa, Dược học hay Răng Hàm Mặt. Điều này dẫn tới sự mất cân đối khi một số ngành đào tạo có xu hướng thừa cục bộ, một số lĩnh vực khác vốn thiết yếu thì lại khan hiếm nhân lực.

Ảnh minh họa: ETU.
Nếu số lượng sinh viên tốt nghiệp cao hơn nhiều so với nhu cầu tuyển dụng và hệ thống giáo dục đại học vẫn thực hiện tuyển sinh với quy mô đào tạo tăng dần theo các năm mà không có quy hoạch điều chỉnh, thì xu hướng này tiếp tục kéo dài có thể dẫn đến nguy cơ mất cân đối cung - cầu nhân lực y tế, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Trong bối cảnh đó, việc rà soát, siết chặt và quy hoạch lại mạng lưới đào tạo là hướng đi phù hợp.
Song, vấn đề này cần dựa trên bức tranh tổng thể với định hướng phát triển bền vững. Việc sắp xếp hay tái cấu trúc các cơ sở đào tạo nên dựa theo tinh thần Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đây là quá trình đòi hỏi nghiên cứu một cách khoa học, có lộ trình rõ ràng để đảm bảo vừa nâng cao chất lượng đào tạo, vừa ổn định phát triển bền vững hệ thống y tế, phát huy được thế mạnh của các cơ sở giáo dục đại học cả công lập và tư thục.
Bên cạnh đó, Y khoa vốn là lĩnh vực có tính đặc thù cao, đòi hỏi quá trình đào tạo phải đáp ứng hệ thống tiêu chuẩn chặt chẽ về chương trình học chuyên sâu, bệnh viện thực hành đạt chuẩn, đội ngũ giảng viên cơ hữu có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm nghề nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất đầy đủ,... nhằm bảo đảm chất lượng đầu ra. Vì vậy, việc đào tạo bác sĩ phải được thực hiện tại các trường đủ năng lực và đạt chuẩn kiểm định. Chủ trương siết chặt tiêu chuẩn đào tạo y khoa không nhằm gây khó khăn mà để nâng cao chất lượng.
Ngành Y cần những bộ lọc phù hợp từ khâu tuyển sinh, đồng thời các trường phải nâng cao chất lượng đào tạo bằng cách cập nhật chương trình theo chuẩn quốc tế với đầu ra tập trung vào năng lực người học. Ngoài ra cần tăng cường đào tạo thực hành tại bệnh viện để người học tiếp xúc với quy trình và ca bệnh thực tế. Bệnh viện theo đó cần phối hợp với trường học chuẩn hóa chương trình thực tập, có hướng dẫn viên lâm sàng theo sát.
Cần có cơ chế điều phối hệ thống đào tạo thống nhất ở cấp vĩ mô
Chất lượng đầu vào của sinh viên là một trong những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả đào tạo Y khoa. Mức điểm chuẩn giữa các trường có sự chênh lệch đáng kể cũng đặt ra những băn khoăn về tính đồng đều của chất lượng nguồn tuyển đối với ngành đặc thù này.
Tiến sĩ, Bác sĩ Diệp Bảo Tuấn - Giám đốc Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn ủng hộ chủ trương siết chặt chất lượng đào tạo ngành Y tại Việt Nam, đồng thời cho rằng việc chỉ trường chuyên lĩnh vực y khoa mới được đào tạo bác sĩ là hướng đi cần thiết, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm chất lượng đội ngũ nhân lực y tế - lĩnh vực gắn trực tiếp với sức khỏe và tính mạng người dân.
Đào tạo bác sĩ vốn là một quá trình đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa nền tảng lý thuyết vững chắc và môi trường thực hành lâm sàng đạt chuẩn. Các trường y khoa chuyên biệt được xây dựng, thiết kế để đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt như về chương trình học khắt khe, đội ngũ giảng dạy giàu kinh nghiệm, hệ thống bệnh viện thực hành hoặc cơ sở lâm sàng liên kết đạt chuẩn. Việc chỉ giới hạn đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học này là một trong số những giải pháp giúp chuẩn hóa đầu ra, đảm bảo mỗi bác sĩ tốt nghiệp đều đạt năng lực chuyên môn cao.

Ảnh minh họa: HMU.
Có thể nói, nghề y là lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, do đó đòi hỏi tinh thần trách nhiệm và quá trình học tập bài bản là yêu cầu bắt buộc. Việc siết chặt quy trình đào tạo ngay từ đầu, chỉ thông qua những cơ sở đại học có truyền thống, kinh nghiệm và nền tảng giảng dạy vững chắc chính là cách giúp cung cấp cho thị trường những bác sĩ có đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng lâm sàng vững vàng.
Không chỉ phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong nước, định hướng này cũng tương đồng với mô hình đào tạo của nhiều quốc gia phát triển hệ thống giáo dục y khoa khi được tổ chức theo hướng tập trung và chuyên sâu. Tiếp cận theo chuẩn mực quốc tế sẽ giúp Việt Nam nâng cao uy tín bằng cấp, tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập, trao đổi học thuật và hợp tác chuyên môn trong thời gian tới.
Đồng tình với ý kiến trên, theo một bác sĩ nội trú, giảng viên tại Trường Đại học Y Hà Nội, trong bức tranh chung của lĩnh vực khoa học sức khỏe, nhu cầu nhân lực trải rộng ở nhiều ngành khác nhau như điều dưỡng, kỹ thuật y học, hộ sinh, phục hồi chức năng hay kỹ thuật hình ảnh. Tuy vậy, thực tế cho thấy nhu cầu cao nhất hiện nay nằm ở điều dưỡng viên, trong khi nhiều cơ sở đào tạo vẫn ưu tiên mở những ngành khác để thu hút thí sinh. Điều này có thể tạo ra sự mất cân đối, khiến thị trường xảy ra tình trạng thừa - thiếu cục bộ, có ngành tuyển sinh ồ ạt nhưng sinh viên tốt nghiệp khó tìm việc, còn những vị trí thiết yếu lại rơi vào vấn đề khan hiếm nhân lực.
Vì vậy, giải pháp không chỉ nằm ở câu chuyện có được mở ngành hay không, mà còn cần có cơ chế điều phối thống nhất ở cấp vĩ mô. Bộ Y tế cung cấp nhu cầu nhân lực của toàn ngành, từ đó phối hợp chặt chẽ với thẩm quyền phê duyệt mở ngành thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhằm định hướng phát triển nguồn nhân lực y tế một cách đồng bộ. Mỗi trường đại học cần đóng góp đúng vai trò của mình trong hệ thống thay vì chạy theo xu hướng nhất thời về những ngành học đang được chú ý trên thị trường.
Trong bối cảnh đó, việc rà soát, quy hoạch và siết lại hoạt động đào tạo là cần thiết, nhưng không nên tiếp cận theo hướng phân biệt công lập hay tư thục. Điều quan trọng là dù thuộc loại hình nào, cơ sở đào tạo phải nằm trong một quy hoạch tổng thể, đáp ứng bộ tiêu chuẩn chất lượng rõ ràng, để hệ thống phát triển cân bằng và bảo đảm chất lượng đầu ra. Việc đào tạo ngành y tại các trường không chuyên không nhất thiết dừng hoàn toàn, nhưng chỉ nên triển khai ở những đơn vị có điều kiện đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt về chuẩn cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và cơ sở lâm sàng.
Ngoài ra cần siết chặt công tác hậu kiểm để duy trì chất lượng đào tạo, nhằm quản lý và kiểm soát điều kiện đáp ứng đầy đủ yêu cầu giảng dạy sau khi đã được cấp phép. Để tránh rơi vào tình trạng mở ngành ồ ạt, hệ thống giáo dục đại học cần một bộ tiêu chuẩn chất lượng cụ thể, chặt chẽ và cơ chế giám sát thực chất đối với ngành đặc thù y khoa. Quan trọng hơn, cần có quy hoạch tổng thể về đào tạo nhân lực y t,: xác định rõ trường nào phù hợp đào tạo bác sĩ, đơn vị nào tập trung vào điều dưỡng, kỹ thuật y học hay các nhóm ngành cận lâm sàng khác. Chỉ khi phân vai và phân tầng hợp lý, hệ thống đào tạo mới có thể đáp ứng đúng nhu cầu, vừa bảo đảm chất lượng, vừa duy trì cân bằng nguồn nhân lực trong dài hạn.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://vanban.chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=209831











