Nếu trưng bày tác phẩm sao chép, bảo tàng có thể đối mặt nguy cơ bị xử lý
Luật sư Nguyễn Ngọc Hùng cho rằng, nếu bảo tàng trưng bày tác phẩm sao chép mà biết hoặc có cơ sở nghi ngờ, đơn vị này hoàn toàn có thể bị xem xét xử lý theo pháp luật.
Ảnh hưởng hay sao chép?
Trong bài viết trước, Người Đưa Tin đã đăng tải bài viết "Vùng xám" bản quyền và bức tượng nhà sư ngồi thiền phản ánh những tranh cãi xoay quanh tác phẩm The Monk của họa sĩ Lê Minh Trí và mối liên hệ với loạt sáng tác trước đó của nhà điêu khắc Đinh Công Đạt.
Câu chuyện nhanh chóng trở thành chủ đề thảo luận sôi động trong giới mỹ thuật về ranh giới giữa sáng tạo, vay mượn và sao chép, một vấn đề vẫn luôn gây nhiều tranh luận và khó định đoạt.
Ở góc nhìn nghệ thuật, họa sĩ Đặng Xuân Hòa cho rằng khó có thể khẳng định dứt khoát Lê Minh Trí “copy” tác phẩm của Đinh Công Đạt.
“Tôi mới chỉ xem qua ảnh và cảm nhận rằng tượng của họa sĩ 9X không hẳn là sao chép, nhưng có dấu hiệu chịu ảnh hưởng phong cách từ người đi trước”, ông nhận định.

Trong khi đó, họa sĩ Vi Kiến Thành – nguyên Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm nhấn mạnh: “Khi thị trường mỹ thuật Việt Nam phát triển, tất yếu sẽ xuất hiện những tranh luận như vậy. Ý tưởng trong nghệ thuật rất dễ trùng lặp và luật bản quyền không bảo hộ ý tưởng.
Nếu xét về tạo hình, khối điêu khắc, màu sắc hay mảng màu, tác phẩm của hai nghệ sĩ không giống nhau. Nói Lê Minh Trí nhái Đinh Công Đạt là thiếu căn cứ”.
Ông cũng lưu ý rằng những trích dẫn pháp lý được một số họa sĩ đưa ra thực chất thuộc phạm vi sáng chế kiểu dáng công nghiệp, không phải bản quyền tác giả trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Tuy nhiên, họa sĩ Chu Nhật Quang chỉ ra rằng trên thực tế, ranh giới giữa ảnh hưởng, vay mượn, sao chép hay biến thể đôi khi nằm trong “vùng xám”.
Họa sĩ cho hay, theo nguyên tắc bản quyền cần phân biệt rạch ròi giữa ý tưởng và biểu đạt. Ý tưởng tổng quát như “người thiền”, “hình khối hình học” hay “họa tiết đối xứng” không được bảo hộ.
Thứ được luật bảo hộ chính là cách biểu đạt cụ thể từ đường nét, tỷ lệ, bố cục, chất liệu, độ dày nét, cho tới cách xử lý ánh sáng.
Nếu một tác phẩm chỉ thay đổi nhỏ, chẳng hạn đổi màu, xoay, lật ngang nhưng vẫn giữ nguyên cấu trúc và đặc điểm đặc trưng, nguy cơ bị coi là sao chép là rất lớn. Ngược lại, nếu có sự biến đổi đáng kể, thêm ngữ cảnh, tư tưởng, cách diễn đạt mới thì có thể được xem là hợp pháp và sáng tạo độc lập.

Họa sĩ Chu Nhật Quang.
“Trong trường hợp cụ thể này, nếu những điểm tương đồng rơi đúng vào phần sáng tạo đặc thù tức những yếu tố không phổ biến, không mang tính ý tưởng chung thì khả năng vi phạm bản quyền là điều khó phủ nhận.
Vì vậy, Bảo tàng với tư cách là đơn vị trưng bày cũng cần thận trọng, chí ít phải yêu cầu xác minh, công khai tranh luận hoặc xin phép khi xuất hiện nghi vấn. Uy tín của bảo tàng không chỉ phụ thuộc vào giá trị sưu tập mà còn gắn liền với sự chuẩn mực trong ứng xử với quyền tác giả”, họa sĩ Chu Nhật Quang nói.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đặt mục tiêu phát triển công nghiệp văn hóa thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, việc bảo vệ quyền tác giả, bảo vệ tài sản trí tuệ của nghệ sĩ càng trở nên cấp thiết.
Bởi lẽ, không có sáng tạo thì không thể hình thành thị trường văn hóa – nghệ thuật lành mạnh, và càng không thể nói đến sức cạnh tranh quốc tế.
Đạo diễn – doanh nhân nghệ thuật Việt Tú nhìn nhận: “Nếu muốn nghệ sĩ Việt Nam vươn ra toàn cầu, chúng ta phải bảo vệ sáng tạo của họ ngay từ trong nước. Sáng tạo chính là tài sản.
Việc xâm phạm quyền tác giả không khác gì xâm phạm tài sản vật chất. Nó không chỉ liên quan đến lợi ích kinh tế, mà còn chạm đến giá trị tinh thần thứ tài sản vô giá của người nghệ sĩ”.
Ông nhấn mạnh thêm, nếu vụ việc này được xử lý công tâm, làm rõ sự thật, nó sẽ trở thành tiền lệ tốt, góp phần hình thành một thông lệ minh bạch để bảo vệ nghệ sĩ trong tương lai.
Ngược lại, nếu mọi thứ không được giải quyết thấu đáo, hệ quả không chỉ là sự nản lòng của người sáng tạo, mà còn làm xói mòn niềm tin của xã hội vào công lý trong nghệ thuật.
Bảo tàng đứng trước rủi ro pháp lý
Người làm nghề nhìn nhận sáng tạo như “tài sản vô giá” cần được bảo vệ, còn ở góc độ pháp lý, vấn đề này lại càng phải được soi chiếu bằng những quy định cụ thể của pháp luật.
Trao đổi với Người Đưa Tin, Luật sư Nguyễn Ngọc Hùng – Trưởng văn phòng Luật sư Kết nối (Đoàn Luật sư Tp.Hà Nội) nhấn mạnh vi phạm bản quyền là hành vi sử dụng trái phép tác phẩm được bảo hộ, xâm phạm trực tiếp đến quyền của tác giả hoặc chủ sở hữu.
Theo Điều 66 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, yếu tố xâm phạm quyền tác giả được xác định trên cơ sở hình thức thể hiện bản gốc, chứ không phải ý tưởng.
Việc so sánh giữa tác phẩm bị nghi ngờ với tác phẩm gốc phải làm rõ về tính nguyên gốc của sự sáng tạo, sự biểu đạt ý tưởng, thời điểm hoàn thành, khả năng tiếp cận và mức độ giống nhau về nhân vật, hình tượng, tình tiết.
Một tác phẩm bị coi là vi phạm nếu sao chép toàn bộ hoặc một phần tác phẩm đang được bảo hộ, hoặc sử dụng nhân vật, hình tượng, cách thể hiện đặc trưng của tác phẩm gốc.
Luật sư Hùng lưu ý, “giống về phong cách sáng tác” không phải là vi phạm. Tuy nhiên, nếu tác phẩm mới sao chép hoặc bắt chước trực tiếp, gián tiếp các yếu tố đặc trưng về hình thức thể hiện, nhân vật, hình tượng… thì có thể bị xem là hành vi xâm phạm.

Luật sư Nguyễn Ngọc Hùng – Trưởng văn phòng Luật sư Kết nối (Đoàn Luật sư Tp.Hà Nội).
Về trách nhiệm, luật sư Hùng khẳng định trách nhiệm chính trong hành vi xâm phạm quyền tác giả (nếu có) thuộc về người sáng tác hoặc người trực tiếp cung cấp, sử dụng tác phẩm vi phạm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đơn vị tổ chức trưng bày hoàn toàn đứng ngoài.
Khoản 7, 8 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ quy định rõ, việc cố ý phân phối, truyền đạt, trưng bày bản sao tác phẩm vi phạm, khi biết hoặc có cơ sở để biết tác phẩm đó có vấn đề, cũng là hành vi xâm phạm.
Đồng thời, Điều 119 Luật này nêu rõ, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tùy theo mức độ có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự.
“Tức là, nếu có căn cứ cho thấy bảo tàng biết hoặc phải biết tác phẩm trưng bày vi phạm bản quyền mà vẫn cố tình giới thiệu, quảng bá thì hoàn toàn có thể bị xem xét trách nhiệm.
Không thể coi đây đơn thuần là việc riêng của hai nghệ sĩ. Với tư cách một thiết chế văn hóa, bảo tàng cần có trách nhiệm pháp lý và nghề nghiệp trong việc thẩm định, kiểm chứng bản quyền trước khi trưng bày”, luật sư Hùng phân tích.
Theo quy định, tác phẩm mỹ thuật được bảo hộ tự động ngay từ khi hình thành dưới dạng vật chất như tranh vẽ, tượng, sắp đặt… mà không cần thủ tục đăng ký.
Thế nhưng, để có cơ sở pháp lý vững chắc khi xảy ra tranh chấp, nghệ sĩ nên đăng ký quyền tác giả tại Cục Bản quyền tác giả.
Giấy chứng nhận này là bằng chứng quan trọng, giúp bảo vệ tác phẩm và tạo thuận lợi trong quá trình xử lý vi phạm.
Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ cũng mở ra nhiều công cụ để tác giả tự bảo vệ mình từ việc áp dụng biện pháp công nghệ, gắn thông tin quản lý quyền đến yêu cầu gỡ bỏ, cải chính, bồi thường hoặc khởi kiện ra tòa án, trọng tài.
Trên thực tế, theo luật sư Hùng việc lựa chọn biện pháp hành chính hoặc thương lượng thường là bước đi nhanh gọn, ít tốn kém trước khi tính đến khởi kiện.
“Như vậy, để tránh tình trạng ‘sáng tạo bị lấy cắp còn kiện thì mệt mỏi’, nghệ sĩ nên chủ động đăng ký bảo hộ, lưu giữ đầy đủ chứng cứ và lựa chọn biện pháp pháp lý phù hợp”, luật sư Nguyễn Ngọc Hùng nhấn mạnh.