Ngân hàng Nhà nước đề xuất 'tái hiện' Nghị quyết 42/2014/QH14 khi sửa Luật Các tổ chức tín dụng

Ngân hàng Nhà nước vừa trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng để luật hóa một số nội dung của Nghị quyết số 42/2014/QH14 trong bối cảnh luật này vừa sửa đổi và có hiệu lực từ 1/7/2024...

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Tại tờ trình, Ngân hàng Nhà nước đề xuất 3 nhóm giải pháp chính sách; thời gian trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025) theo quy trình một kỳ họp và soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn.

LUẬT HÓA QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN THU GIỮ TÀI SẢN BẢO ĐẢM

Theo Ngân hàng Nhà nước, mục tiêu của chính sách này là xử lý vướng mắc của các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu, nhằm đảm bảo cân bằng giữa quyền của chủ nợ và các quyền lợi hợp pháp của bên bảo đảm.

Các vướng mắc này phát sinh từ trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản, tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức tín dụng phải khởi kiện và chờ thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo Điều 301 Bộ Luật Dân sự 2015. Đồng thời, pháp luật mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc người đang giữ tài sản không giao tài sản để bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm mà không quy định trực tiếp quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.

Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi 2024 có hiệu lực từ 1/7/2024. Ở phiên bản này, nội dung Nghị quyết 42 được nhiều bên đề nghị đưa vào luật hóa nhưng không được thông qua. Đến nay, sau 8 tháng thực hiện, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đề nghị sửa đổi theo hướng luật hóa Nghị quyết 42 như nhiều lần kiến nghị trước đó.

Theo Ngân hàng Nhà nước, việc thiếu quy định này đã gây khó khăn rất lớn đến quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức mua bán, xử lý nợ và tổ chức tín dụng vì tổ chức mua bán, xử lý nợ cũng như các tổ chức tín dụng không thể thực hiện việc thu giữ nếu các chủ tài sản không đồng thuận, cố tình chống đối, thậm chí tạo ra các tranh chấp khác liên quan đến tài sản bảo đảm nhằm kéo dài thời gian xử lý tài sản bảo đảm.

Việc xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức tín dụng bị kéo dài cũng làm ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của việc xử lý nợ xấu, dẫn đến khó có thể khơi thông được nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, làm ảnh hưởng đến mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và là một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc tiếp cận tín dụng, hạn chế khả năng tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng của nền kinh tế.

Ngoài ra, việc đẩy nhanh tốc độ và giảm chi phí xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu, từ đó góp phần giảm chi phí các khoản cấp tín dụng, hạ lãi suất, tăng cường khả năng quay vòng vốn và tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp; tránh để phát sinh và bùng phát tình trạng người dân, doanh nghiệp tiếp cận “tín dụng đen”.

Theo Ngân hàng Nhà nước, trên thực tế, quá trình khởi kiện, tham gia tố tụng và tiến hành thi hành án theo quy định cho mỗi vụ án thường kéo dài nhiều năm, trong bối cảnh ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro, dừng dự thu lãi trong khi vẫn phải trả chi phí huy động vốn hàng ngày. Thực trạng đó tạo ra rủi ro lớn, đặc biệt cho tổ chức tín dụng có hàm lượng cho vay bán lẻ tỷ trọng cao, hướng tới kích cầu, phải xử lý rất nhiều món nợ xấu giá trị nhỏ, địa lý phân tán, dẫn đến chi phí hoạt động cao trong vấn đề thu hồi nợ và làm giảm khả năng đẩy mạnh cho vay khách hàng, khó giảm được lãi suất cho vay.

LUẬT HÓA QUY ĐỊNH VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM CỦA BÊN PHẢI THI HÀNH ÁN

Theo Ngân hàng Nhà nước, chính sách này sẽ khắc phục được khó khăn, vướng mắc của tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ trong việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình nhưng vẫn đảm bảo việc thi hành án đối với một số nghĩa vụ như cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.

Ngân hàng Nhà nước cho biết chính sách này được đề xuất nhằm hài hòa hóa giữa việc bảo vệ quyền chủ nợ của bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng với việc thực thi các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Cụ thể, Điều 90 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên tài sản cầm cố, thế chấp trong trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản bảo đảm nào khác để thi hành án hoặc có mà không đủ nếu giá trị tài sản bảo đảm đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.

Ngân hàng Nhà nước cho rằng quy định này ảnh hưởng lớn đến quyền chủ nợ của bên nhận bảo đảm, làm gia tăng nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt trong trường hợp tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay là nguồn chính để trả nợ cho tổ chức tín dụng.

Trước đây, khi Điều 11 Nghị quyết 42 có hiệu lực, khó khăn của tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ đã cơ bản được khắc phục, xử lý. Vì vậy, khi quy định này không được luật hóa tại Luật các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ tiếp tục gặp khó khăn do tài sản bảo đảm có thể bị kê biên để thi hành án, kể cả để thực hiện các nghĩa vụ không phải thuộc trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; điều này ảnh hưởng lớn đến quyền lợi chủ nợ của các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ.

LUẬT HÓA QUY ĐỊNH VỀ HOÀN TRẢ TÀI SẢN BẢO ĐẢM LÀ VẬT CHỨNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ

Nhóm chính sách thứ 3 được Ngân hàng Nhà nước đề xuất là luật hóa quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Thứ nhất, việc luật hóa quy định về hoàn trả tài sản là vật chứng trong vụ án hình sự cho bên nhận bảo đảm sẽ giúp bảo vệ quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng (bên nhận bảo đảm), thúc đẩy đến tiến độ và hiệu quả xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ.

Hiện tại, pháp luật hiện hành chưa có quy định về việc hoàn trả tài sản/vật chứng là tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm sau khi cơ quan tiến hành tố tụng hoàn tất thủ tục xác định tài sản bảo đảm là vật chứng hay không phải vật chứng. Khoản 3 Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự mới chỉ quy định việc trả lại tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó; hoặc trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án.

Thứ hai, việc bổ sung quy định về hoàn trả tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính sẽ giúp tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định không áp dụng hình thức tịch thu đối với tang vật, phương tiện trong vụ việc vi phạm hành chính.

Cụ thể, khoản 1 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính mới chỉ quy định: “đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu nhưng đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản theo quy định của pháp luật dân sự thì bên nhận thế chấp được nhận lại tang vật, phương tiện hoặc trị giá tương đương với nghĩa vụ được bảo đảm…” mà chưa quy định cụ thể trường hợp khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định không áp dụng hình thức tịch thu đối với tang vật, phương tiện trong vụ việc vi phạm hành chính thì hoàn trả tang vật, phương tiện là tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền hoàn trả tài sản cho chủ tài sản là bên bảo đảm, khiến bên nhận bảo đảm (tổ chức tín dụng) có thể không còn tài sản bảo đảm, gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng.

Kỳ Phong

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/ngan-hang-nha-nuoc-de-xuat-tai-hien-nghi-quyet-42-2014-qh14-khi-sua-luat-cac-to-chuc-tin-dung.htm