Ngân hàng phải hỗ trợ 12 tháng lương khi thu giữ tài sản là chỗ ở duy nhất
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 304/2025/NĐ-CP quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ, trong đó điểm đáng chú ý là tổ chức tín dụng bắt buộc phải trích một khoản tiền tương đương 12 tháng lương tối thiểu để hỗ trợ bên bảo đảm trong trường hợp tài sản bị thu giữ là chỗ ở duy nhất...

Ảnh minh họa.
Nghị định này gồm 8 điều quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ theo điểm đ khoản 2 Điều 198a Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15; áp dụng đối với tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ có chức năng mua, bán, xử lý nợ (sau đây gọi là tổ chức mua bán, xử lý nợ); cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Nghị định được thiết kế theo hướng khi thu giữ các tài sản bảo đảm là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất, tổ chức tín dụng có trách nhiệm trích một khoản tiền để bên bảo đảm có khả năng, nguồn lực duy trì cuộc sống, đảm bảo các chi phí sinh hoạt tối thiểu của bên bảo đảm và gia đình.
ĐIỀU KIỆN THU GIỮ TÀI SẢN BẢO ĐẢM CỦA KHOẢN NỢ XẤU
Nghị định 304/2025/NĐ-CP quy định rõ các điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm liên quan đến khoản nợ xấu. Theo đó, tài sản bảo đảm là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất chỉ được phép thu giữ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 198a Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15 (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15), đồng thời đáp ứng một trong hai điều kiện sau:
Trường hợp tài sản bảo đảm là chỗ ở duy nhất, đã được xác nhận và chứng minh theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định này, bên nhận bảo đảm có trách nhiệm trích một khoản tiền hỗ trợ bên bảo đảm tương đương 12 tháng lương tính theo mức lương tối thiểu. Nếu tài sản bị thu giữ là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất và không hình thành từ vốn vay, đã được xác nhận và chứng minh hợp lệ, khoản hỗ trợ phải tương đương 6 tháng lương tối thiểu.
Đối với các loại tài sản bảo đảm không thuộc hai trường hợp nêu trên, việc thu giữ chỉ cần đáp ứng các điều kiện theo quy định chung tại khoản 2 Điều 198a Luật Các tổ chức tín dụng đã sửa đổi, bổ sung.
QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BÊN BẢO ĐẢM
Nghị định quy định bên bảo đảm có nghĩa vụ xác nhận và chứng minh tình trạng tài sản theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận yêu cầu. Việc xác nhận có thể được thể hiện trong hợp đồng bảo đảm hoặc tại một văn bản riêng. Trường hợp bên bảo đảm không thực hiện đúng thời hạn, tài sản sẽ mặc nhiên được xác định là không thuộc diện chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động duy nhất theo quy định.
Bên bảo đảm cũng phải chịu trách nhiệm về nội dung xác nhận và tính hợp pháp của các tài liệu chứng minh, bao gồm: giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản bảo đảm và các tài sản liên quan (nếu có); sao kê tài khoản ngân hàng ghi nhận thu nhập hàng tháng; tài liệu chứng minh việc thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân; hóa đơn điện, nước hoặc internet xác nhận nơi cư trú; cùng với các tài liệu chứng minh khác.
TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ TỔ CHỨC XỬ LÝ NỢ
Đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức xử lý nợ, nghị định yêu cầu các đơn vị này phải cung cấp đầy đủ thông tin cho bên bảo đảm về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan. Đồng thời, họ có trách nhiệm trích khoản tiền hỗ trợ theo quy định nếu tài sản bảo đảm thuộc trường hợp đặc biệt.
Việc thu giữ tài sản bảo đảm chỉ được thực hiện khi đủ điều kiện theo Điều 4 của Nghị định này hoặc theo quy định tại khoản 2 Điều 5 nếu thuộc trường hợp đặc biệt. Quá trình thu giữ phải tuân thủ trình tự được quy định cụ thể tại các khoản 3 đến 7 Điều 198a của Luật số 32/2024/QH15 (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15).











