Ngành cao-su Việt Nam chuẩn bị đáp ứng Quy định chống phá rừng châu Âu
Chiều 17/5, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hiệp hội Cao-su Việt Nam (VRA) và tổ chức Forest Trends phối hợp tổ chức Hội thảo: 'Thực trạng chuỗi cung ngành cao-su Việt Nam: Chuẩn bị để đáp ứng quy định chống phá rừng châu Âu'.
Dự hội thảo có đại diện các cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao-su Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất nhập khẩu các mặt hàng cao-su, các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức quốc tế.
Hội thảo cung cấp thông tin về Quy định chống phá rừng (EUDR), chia sẻ thông tin về thực trạng chuỗi cung ngành cao-su của Việt Nam, tập trung vào nguồn cung trong nước và nguồn cung nhập khẩu.
Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành Quy định chống phá rừng và chính thức có hiệu lực từ ngày 29/6/2023. Theo EUDR, 7 nhóm mặt hàng, trong đó có cao-su, sẽ bị cấm nhập khẩu vào EU nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này vi phạm các quy định của quốc gia xuất khẩu và/hoặc gây mất rừng và suy thoái rừng. Một trong những yêu cầu quan trọng nhất của EUDR là truy xuất nguồn gốc.
Theo đó, các sản phẩm cao-su được nhập khẩu vào EU cần bảo đảm truy xuất được tới các thửa đất nơi cao-su được khai thác.
Cao-su là một trong ba mặt hàng của Việt Nam (bên cạnh gỗ và cà-phê) xuất khẩu vào EU chịu sự kiểm soát của EUDR. Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu cao-su nguyên liệu và sản phẩm cao-su từ Việt Nam vào thị trường này đạt gần 470 triệu USD, tương đương 6,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành. EU hiện đang là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của ngành cao-su Việt Nam.
Hiện nguồn cung cao-su nguyên liệu đầu vào cho ngành cao-su Việt Nam bao gồm nguồn cung trong nước và nguồn cung nhập khẩu. Nguồn cung trong nước là từ diện tích 918.000ha trồng cao-su, bao gồm nguồn cao-su tiểu điền (cung trên 50% trong tổng lượng cung trong nước) và nguồn cao-su đại điền (chiếm dưới 50%). Năm 2023, nguồn cung trong nước đạt khoảng 1,3 triệu tấn.
Việt Nam có hơn 200.000ha cao-su đã đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững VFCS/PEFC, với 100% diện tích này là các diện tích thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao-su Việt Nam. Một diện tích nhỏ khoảng 6.000ha thuộc một số doanh nghiệp tư nhân và nhóm hộ tiểu điền đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC. Diện tích còn lại chưa có chứng chỉ.
Nguồn cung nhập khẩu ngày càng trở nên quan trọng. Năm 2023, Việt Nam nhập khẩu 1,4 triệu tấn cao-su nguyên liệu, với trên 80% trong đó là từ Campuchia, dưới 20% còn lại là từ Lào và một số nguồn khác. Đầu ra xuất khẩu là các mặt hàng cao-su, bao gồm cao-su nguyên liệu và sản phẩm cao-su. Đây là các mặt hàng có nguồn gốc từ cao-su trong nước (đại điền, tiểu điền) và cao-su nhập khẩu.
Tại Hội thảo, ông Hoàng Thành, Đại diện của Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam cho biết: “Để đáp ứng yêu cầu trong Quy định của EU về các sản phẩm không gây phá rừng (EUDR), các sản phẩm từ cao-su muốn nhập khẩu vào thị trường EU cần được bảo đảm đã được thực hiện đầy đủ các quy định về Trách nhiệm giải trình (Due diligence), bao gồm việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm tới từng lô đất sản xuất ra các hàng hóa đó”.
Ông Võ Hoàng An, Tổng Thư ký Hiệp hội Cao-su Việt Nam chia sẻ: “Các diện tích cao-su đại điền của Việt Nam, đặc biệt là diện tích thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao-su Việt Nam không đối mặt với khó khăn trong việc đáp ứng với các yêu cầu của EUDR, bởi các diện tích này đã được trồng cao-su từ lâu, đất đai có nguồn gốc, ranh giới rõ ràng và có đầy đủ giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất”.
Theo ông Nguyễn Vinh Quang, cán bộ nghiên cứu của Tổ chức Forest Trends, “Khó khăn lớn nhất của ngành cao-su Việt Nam trong việc bảo đảm truy xuất nguồn gốc của ngành cao-su Việt Nam nằm ở phần cung nguyên liệu của cao-su tiểu điền trong nước và phần cao-su nhập khẩu”.
Hiện tại, chuỗi cung tiểu điền tương đối phức tạp, với cao-su khai thác từ các hộ đi qua nhiều khâu trước khi được đưa vào chế biến. Một số diện tích cao-su tiểu điền chưa có giấy chứng nhận sử dụng đất. Thông tin về nguồn cung nhập khẩu từ Campuchia và Lào hiện rất ít. Chuỗi cung nhập khẩu hiện tại không cho phép việc truy xuất nguồn gốc.
Tại hội thảo, các đại biểu cũng thảo luận về khả năng và thách thức của ngành đối với việc đáp ứng các yêu cầu của EUDR; từ đó, đề xuất các giải pháp hướng tới đáp ứng đầy đủ các quy định của EUDR và phát triển bền vững ngành cao-su Việt Nam trong tương lai.