Ngành lâm nghiệp Việt sẵn sàng ứng phó với EUDR

Để xuất khẩu gỗ hay các sản phẩm như cà phê, cao su sang EU cần vượt qua được 'hàng rào' Quy định chống phá rừng (EUDR), khó khăn lớn nhất của ngành lâm nghiệp là yêu cầu 'chính danh' ngay từ nguồn cung nguyên liệu.

Ngành nông nghiệp đối mặt với EUDR

Chia sẻ tại sự kiện của ngành cao su trong việc chuẩn bị để đáp ứng quy định chống phá rừng Châu Âu, ông Hoàng Thành, đại diện của Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam, cho biết: Ngày 23/6/2023, EU đã ban hành Quy định chống mất rừng (EUDR). Quy định này cấm nhập khẩu 7 nhóm mặt hàng (cà phê, dầu cọ, gỗ, cao su, thịt bò, cacao và đậu) vào EU, nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này gây mất rừng.

Ba mặt hàng quan trọng của Việt Nam xuất khẩu vào EU là cà phê, gỗ và cao su, đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của Quy định chống mất rừng của EU. Ảnh: TTXVN

Ba mặt hàng quan trọng của Việt Nam xuất khẩu vào EU là cà phê, gỗ và cao su, đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của Quy định chống mất rừng của EU. Ảnh: TTXVN

Theo EUDR, nông sản gây mất rừng được tính với mốc thời gian mất rừng từ ngày 31/12/2020 trở đi. Đồng thời, sản phẩm được coi là hợp pháp nếu quá trình sản xuất ra sản phẩm đó tuân thủ các quy định về đất đai, bảo vệ môi trường, sử dụng lao động, nhân quyền, các quy định về thuế, phí…

Hiện, Việt Nam có ba mặt hàng quan trọng xuất khẩu vào EU là cà phê, gỗ và cao su, đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của Quy định chống mất rừng của EU. Giá trị kim ngạch xuất khẩu ba mặt hàng này của Việt Nam vào EU mỗi năm trên 2,5 tỷ USD.

Đơn cử như cao su, Việt Nam đã xuất khẩu mặt hàng này đến hơn 80 quốc gia. Năm 2023, Trung Quốc dẫn đầu thị phần, chiếm 79,6%, thứ hai là Ấn Độ 5,3%, thứ ba là EU với tổng lượng xuất khẩu đạt 66.472 tấn, chiếm 3,1% thị phần, giá trị đạt gần 94,3 triệu USD. Ngoài ra, xuất khẩu gỗ cao su đem về 2,2 tỷ USD trong năm 2023. Sản phẩm cao su chế biến sâu đạt kim ngạch cao nhất, với 4,4 tỷ USD năm 2023, tăng 3,5% so với năm 2022.

Tuy không phải thị trường xuất khẩu dẫn đầu của toàn ngành cao su Việt Nam, song EU vẫn là khách hàng quan trọng đối với các nhóm ngành cao su thiên nhiên và sản phẩm cao su chế biến sâu, do là thị trường tiềm năng, có sức mua cao và còn nhiều dư địa.

"Để đáp ứng yêu cầu trong Quy định của EU về các sản phẩm không gây phá rừng (EUDR), các sản phẩm như cao su muốn nhập khẩu vào thị trường EU cần được bảo đảm đã được thực hiện đầy đủ các quy định về Trách nhiệm giải trình (Due diligence), bao gồm việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm tới từng lô đất sản xuất ra các hàng hóa đó”, ông Hoàng Thành nhấn mạnh.

Gỡ vướng EUDR từ “hình mẫu” cao su

Chia sẻ về chuỗi cung làm cản trở tới khả năng truy xuất nguồn gốc, ảnh hưởng đến kết quả đánh giá và phân loại rủi ro của EU theo quốc gia, vùng sản xuất, ông Tô Xuân Phúc - Giám đốc Tổ chức Forest Trends tại Việt Nam, cho biết: Với gỗ rừng trồng, hiện tại cả nước có 3,5 triệu ha rừng sản xuất, với 1,1 triệu hộ tham gia trồng rừng sản xuất, cung cấp 60% trong tổng lượng cung gỗ rừng trồng mỗi năm (trên 24 triệu m3 tổng số), còn lại là do các doanh nghiệp trồng rừng.

Hiện đã có trên 60% số hộ trồng rừng được nhận giấy chứng nhận sử dụng đất. Hầu hết các công ty lâm nghiệp nhà nước đã có giấy chứng nhận sử dụng đất. Tuy vậy, diện tích rừng sản xuất có chứng chỉ bền vững chỉ mới chiếm dưới 10% tổng diện tích rừng sản xuất.

Với đất trồng cà phê, đây đa phần là đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ sử dụng lâu dài. Mặc dù có tới 40% diện tích đất trồng cà phê tại Việt Nam đã được cấp chứng chỉ sản xuất bền vững, nhưng có những diện tích mở rộng trên nền đất rừng kể từ sau năm 2003 đến nay vẫn chưa có giấy chứng nhận sử dụng đất.

Với ngành cao su, tổng diện tích cây cao su tại Việt Nam hiện khoảng 918.000 ha, với khoảng 300.000 hộ tiểu điền tham gia trồng trên diện tích và lượng cung chiếm trên 50% trong tổng diện tích và tổng lượng cung của toàn ngành. Còn lại là do gần 100 công ty Nhà nước chủ yếu thuộc Tập đoàn Cao su Việt Nam và UBND các địa phương. Đất giao cho các công ty cao su Nhà nước hầu hết đã có “sổ đỏ”, nhưng hiện chưa có thông tin về tình trạng giấy chứng nhận sử dụng đất của hộ trồng cao su.

"Cả ba ngành hàng cà phê, gỗ, cao su có đặc điểm chung khá tương đồng. Nông hộ đóng vai trò chủ đạo trong khâu đầu của chuỗi; đất sản xuất tương đối manh mún; chuỗi cung thường dài, với nhiều bên tham gia", ông Phúc thông tin.

Vào tháng 6/2023, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã xây dựng Khung Kế hoạch hành động cấp quốc gia của ngành nông nghiệp, nhằm đáp ứng EUDR. Tháng 9/2023, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã đưa ra các đề nghị đến cơ quan EC: Công bố quy trình cụ thể đối với việc thực thi EUDR, ban hành tài liệu kỹ thuật hướng dẫn để có kế hoạch thích ứng kịp thời; có giải pháp giảm thiểu chi phí trong thực thi EUDR…

Để thích ứng với EUDR, theo ông Võ Hoàng An, Tổng Thư ký Hiệp hội Cao su Việt Nam, Hiệp hội đã và đang tham khảo một số phương pháp được phát triển bởi các ngành hàng, quốc gia khác trên thế giới như lập bản đồ số và khả năng truy xuất nguồn gốc đến cấp độ vườn cây, số hóa chặng đường đầu tiên của chuỗi giá trị nông nghiệp... có thể đặt nền tảng cho các biện pháp can thiệp bền vững toàn diện.

Hiệp hội Cao su Việt Nam đề xuất Bộ NN&PTNT tăng cường kiến nghị với EU về lộ trình cụ thể đối với việc thực thi EUDR, ban hành tài liệu kỹ thuật hướng dẫn cho các ngành hàng bị ảnh hưởng, trong đó có ngành cao su, để có kế hoạch thích ứng kịp thời.

Cùng với đó, Hiệp hội cũng đề nghị Nhà nước nghiên cứu các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và nâng cao năng lực hộ tiểu điền cao su trong việc thích ứng với EUDR, đặc biệt là về dữ liệu định vị, truy xuất nguồn gốc. Đây là những giải pháp cấp bách để “gỡ hàng rào” EUDR trong thời gian tới.

L.Sơn/Báo Tin tức

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/kinh-te/nganh-lam-nghiep-viet-san-sang-ung-pho-voi-eudr-20240531110907843.htm