Ngành tre Việt Nam: Thách thức chuyển đổi từ cây nguyên liệu sang cây tỷ đô

Ngành tre Việt Nam đang sở hữu tiềm năng lớn với hơn 1,5 triệu ha tre và kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu USD mỗi năm, nhưng giá trị mang lại vẫn chưa tương xứng. Hàng loạt 'nút thắt' về vùng nguyên liệu, công nghệ chế biến và liên kết chuỗi đang kìm chân 'cây tre tỷ đô' trên hành trình vươn ra thế giới.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện cả nước có khoảng 1,59 triệu ha tre, phân bố ở hầu hết 63 tỉnh thành. Tổng trữ lượng ước đạt khoảng 6,5 tỷ cây. Từ nguồn tài nguyên khổng lồ này, Việt Nam mỗi năm thu về khoảng 300 - 400 triệu USD từ sản phẩm tre, trong khi thị trường toàn cầu được dự báo sẽ đạt quy mô khoảng 82 - 83 tỷ USD vào năm 2028. So với tiềm năng ấy, con số vài trăm triệu USD của Việt Nam vẫn còn quá khiêm tốn.

Điểm nghẽn khiến “cây tre triệu đô” chưa bật dậy

Theo nhiều chuyên gia, nguyên nhân nằm ở hàng loạt “nút thắt” đã tồn tại nhiều năm nhưng chưa được tháo gỡ. Nút thắt đầu tiên là quy mô sản xuất nhỏ lẻ và manh mún. Hơn 95% HTX, doanh nghiệp chế biến tre ở Việt Nam hiện nay có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu hoạt động ở quy mô hộ gia đình, dẫn đến năng lực chế biến yếu, chi phí cao, khó đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn và thiết kế của thị trường quốc tế.

Nút thắt này thể hiện rõ ở mô hình của nhiều đơn vị cơ sở. Đơn cử, HTX Tre Tầm Vông Tố Lan tại Lâm Đồng đã tổ chức lại việc trồng và khai thác, tạo đầu ra ổn định cho người dân. Tuy nhiên, HTX này vẫn đang dừng ở giai đoạn sơ chế, chưa có điều kiện đầu tư sâu vào công nghệ, nên sản phẩm xuất khẩu còn hạn chế và giá trị gia tăng thấp.

Công nghệ chế biến lạc hậu cũng là một điểm yếu lớn. Phần lớn sản phẩm tre xuất khẩu hiện vẫn là hàng thủ công mỹ nghệ hoặc nguyên liệu thô, giá trị gia tăng thấp. Nhiều cơ sở vẫn sử dụng máy móc cũ, thiếu khâu xử lý, sấy, ép thanh và thiết kế hiện đại.

Sản xuất thang tre treo khăn và hàng rào tre xuất khẩu tại HTX Tre tầm vông Tố Lan.

Sản xuất thang tre treo khăn và hàng rào tre xuất khẩu tại HTX Tre tầm vông Tố Lan.

Thống kê cho thấy, chưa đến 20% doanh nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn hóa, đồng nhất và mẫu mã sáng tạo từ các nhà nhập khẩu. Ngay cả những doanh nghiệp quy mô lớn cũng đối mặt với thách thức này. Công ty Cổ phần Bamboo King Vina ở Thanh Hóa dù có nhà máy lớn và tạo chuỗi liên kết tre luồng ổn định, song doanh nghiệp này vẫn phải đối mặt với khó khăn về chi phí đầu tư công nghệ cao và thách thức về nguồn giống thoái hóa, cản trở việc tạo ra sản phẩm hoàn thiện, đạt chuẩn cao.

Một yếu tố khác cũng được nhiều chuyên gia đề cập là hành lang pháp lý và chính sách hỗ trợ cho ngành tre chưa hoàn thiện. Hiện Việt Nam vẫn chưa có bộ tiêu chuẩn riêng cho sản phẩm tre, chưa có cơ chế tín dụng ưu đãi hoặc chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư dài hạn vào lĩnh vực này.

Ông Lê Bá Ngọc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, chia sẻ: "Hiện tại, xuất khẩu sản phẩm mây tre của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 3 đến 4% thị phần toàn cầu”. Ông cho rằng đây là con số rất khiêm tốn và nếu tháo gỡ được các nút thắt cơ bản về công nghệ chế biến và liên kết chuỗi giá trị, thị phần xuất khẩu hoàn toàn có thể đạt 10 đến 15% trong những năm tới.

Đưa cây tre thành trụ cột kinh tế

TS Diệp Thị Mỹ Hạnh, chủ làng tre Phú An (TP HCM), cho biết những điểm yếu như vùng nguyên liệu phân tán, công nghệ chế biến lạc hậu và sản phẩm đơn giản chính là rào cản khiến ngành tre Việt Nam chưa thể bứt phá.

Do đó, việc xây dựng vùng nguyên liệu tập trung với giống tre chất lượng cao là điều tiên quyết. Các vùng có thế mạnh cần được quy hoạch rõ ràng, hỗ trợ kỹ thuật, xử lý đất và cấp chứng chỉ FSC để nâng cao giá trị xuất khẩu. Cùng với đó, HTX, doanh nghiệp cần được khuyến khích đầu tư công nghệ hiện đại nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị cao như ván ép, sàn tre, đồ nội thất và vật liệu xây dựng hay các sản phẩm có giá trị cao như bột tre, than tre hoạt tính... Việc tham gia các hội chợ quốc tế, nghiên cứu xu hướng tiêu dùng xanh, phát triển thiết kế mang bản sắc Việt sẽ giúp sản phẩm tre tiến gần hơn tới người tiêu dùng toàn cầu.

Song song đó, cần có cơ chế pháp lý rõ ràng để hỗ trợ HTX, doanh nghiệp trong ngành vươn tầm. Bởi trong khi Việt Nam mới chiếm khoảng 3-4% thị phần mây tre toàn cầu, thì Trung Quốc hiện đang dẫn đầu, chiếm tới 67% tổng giá trị xuất khẩu tre, nứa trên thế giới. Trung Quốc không chỉ vượt trội về sản lượng mà còn về năng lực kỹ thuật và chất lượng, bởi quốc gia này đã sớm đưa ra các chương trình hành động cấp quốc gia với tầm nhìn chiến lược. Điển hình là chương trình "Thay nhựa bằng tre", nơi tre được định vị là vật liệu thay thế cho nhựa và gỗ trong nhiều ngành công nghiệp, từ vật liệu xây dựng đến đồ gia dụng, được Chính phủ tài trợ và khuyến khích đầu tư công nghệ sâu.

Sự thiếu vắng một chiến lược tổng thể và các chính sách hỗ trợ tài chính rõ ràng như các cường quốc tre đang là rào cản lớn nhất đối với việc nâng tầm vị thế cây tre Việt.

Ngoài ra, việc xây dựng thương hiệu và tiêu chuẩn ngành cũng vô cùng quan trọng. Việt Nam cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý cho ngành tre, ban hành tiêu chuẩn về giống, chế biến, xuất khẩu. Nhà nước nên có cơ chế hỗ trợ tín dụng, đào tạo nhân lực và xúc tiến thương mại cho HTX, doanh nghiệp tre. Vì dù đã xuất khẩu sản phẩm sang nhiều thị trường, nhưng thế giới hiện biết đến các sản phẩm tre từ Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ nhiều hơn là Việt Nam.

Có thể thấy, ngành tre Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn khi thế giới chuyển dịch mạnh mẽ sang xu hướng tiêu dùng xanh. Cơ hội này sẽ trở thành hiện thực khi những nút thắt lâu nay được tháo gỡ, biến cây tre trở thành trụ cột mới của kinh tế xanh Việt Nam.

Tùng Lâm

Nguồn Vnbusiness: https://vnbusiness.vn/thi-truong/nga-nh-tre-viet-nam-thach-thuc-chuyen-doi-tu-cay-nguyen-lieu-sang-cay-ty-do-1110575.html