Ngày 17/2: Giá cà phê quay đầu đi lên, hồ tiêu nối đà tăng

Giá cà phê hôm nay quay đầu đi lên trên thị trường thế giới. Cụ thể, giá cà phê arabica giao tháng 3/2023 trên Sàn New York tăng với biên độ gần 2%, hiện đạt mức 180,25 US cent/pound. Trong khi đó, hồ tiêu cũng nối đà tăng so với ngày hôm qua.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Giá cà phê thế giới tăng trở lại

Trên thị trường thế giới, giá cà phê tăng trở lại. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 3/2023 được ghi nhận tại mức 2.068 USD/tấn sau khi tăng 0,98% (tương đương 2 USD).

Giá cà phê arabica giao tháng 3/2023 tại New York đạt mức 180,25 US cent/pound, tăng 1,84% (tương đương 3,25 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h20 (giờ Việt Nam).

Theo số liệu từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong giai đoạn 2017 - 2022, tốc độ nhập khẩu cà phê của Trung Quốc tăng trưởng bình quân 25,1%/năm, từ 262,25 triệu USD năm 2017 tăng lên mức cao nhất 717,96 triệu USD vào năm 2022. Do đó, Trung Quốc được coi là thị trường có tiềm năng lớn đối với ngành cà phê xuất khẩu toàn cầu.

Xét về cơ cấu nguồn cung, trong năm 2022, Trung Quốc nhập khẩu cà phê từ trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó, các nguồn cung cà phê chính cho Trung Quốc gồm: Ethiopia, Colombia, Brazil, Malaysia, Italia, Việt Nam,…

Số liệu thống kê từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc cho thấy, kim ngạch nhập khẩu cà phê của nước này trong năm 2022 từ Ethiopia tăng tới 209,2% so với năm 2021, đạt 188,1 triệu USD. Thị phần cà phê của Ethiopia trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc tăng mạnh, từ 11,56% trong năm 2021 lên 26,2% trong năm 2022.

Ngược lại, Trung Quốc giảm nhập khẩu cà phê từ Việt Nam trong năm 2022, mức giảm 11,1% so với năm 2021, đạt 49,63 triệu USD. Thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc giảm mạnh, từ 10,61% trong năm 2021 xuống 6,91% trong năm 2022.

Giá tiêu thế giới

Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) ngày 16/2 (theo giờ địa phương), giá tiêu thế giới so với ngày 15/2 như sau:

Tiêu đen Lampung (Indonesia) ở mức 3.540 USD/tấn, tăng 0,11%; Tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 2.950 USD/tấn, không đổi; Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA ở mức 4.900 USD/tấn, không đổi; Tiêu trắng Muntok: ở mức 6.095 USD/tấn, tăng 0,11%; Tiêu trắng Malaysia ASTA ở mức 7.300 USD/tấn, không đổi.

Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam trong tháng 1/2023 đạt 12,55 nghìn tấn, trị giá 43,2 triệu USD, giảm 38,6% về lượng và giảm 41,2% về trị giá so với tháng 12/2022, so với tháng 1/2022 giảm 20,5% về lượng và giảm 41,8% về trị giá.

Tháng 1/2023, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam đạt mức 3.442 USD/tấn, giảm 4,3% so với tháng 12/2022 và giảm 26,8% so với tháng 1/2022. Trong đó, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu sang hầu hết các thị trường xuất khẩu chủ lực giảm so với tháng trước và so với cùng kỳ năm 2022.

Đáng chú ý, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam sang Philippines và Nhật Bản tăng lần lượt 30,3% và 30% so với tháng 12/2022. Xét về cơ cấu thị trường, trong tháng 1/2023, xuất khẩu hạt tiêu sang nhiều thị trường chủ lực giảm so với tháng 12/2022, ngoại trừ Ấn Độ, Ai Cập, Nhật Bản và Senegal./.

A.T (t/h)

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/ngay-172-gia-ca-phe-quay-dau-di-len-ho-tieu-noi-da-tang-121890.html