Ngày xuân nhớ tiếng còi tàu và những hồi ức phố ga

Những ngày áp Tết, người người thu xếp trở về quê hương, gia đình đoàn tụ. Trong không khí đậm hương xuân, mỗi người đều có những tâm trạng, suy nghĩ khác nhau, nhưng dường như tất thảy đều ôn lại chuyện năm qua và hồi ức về những chặng xa, xưa kỷ niệm. Với riêng tôi, cứ mỗi mùa xuân về, không hiểu sao tôi bỗng nhớ tiếng còi tàu hỏa da diết.

Nhà tôi ở bên kia đường trước nhà ga Hàng Cỏ. Bây giờ có tên ga Hà Nội, nhưng mẹ tôi và cả anh em trong nhà đều quen gọi là ga Hàng Cỏ. Ngay cả bố tôi, xưa đã vài lần gửi thư về từ tiền phương, ngoài bì vẫn quen đề “Nhà số… Trước ga Hàng Cỏ”, vậy mà bưu điện vẫn chuyển đúng.

Thời còn khó khăn, nhà tôi mở hàng bán nước chè chén, gọi là “chè xu”, kèm mấy lọ kẹo vừng, kẹo lạc… và tôi thường thay mẹ ngồi bán hàng mỗi khi bà có việc đi đâu. Có hàng nước, nhất là nhà trước ga, thời ấy cũng là mơ ước của nhiều gia đình. Nhưng với tôi, tôi rất khó chịu với sự luôn ồn ào, đông đúc trước cửa nhà, cả ngày lẫn đêm. Và đáng kể nhất là tiếng còi tàu (ngày ấy chủ yếu là đầu máy hơi nước) vài hồi lại rúc lên, suốt từ canh khuya cho tới sáng, khiến giấc ngủ luôn chập chờn, trăn trở.

Sương sớm cầu Long Biên. Ảnh: Đỗ Thành Trung.

Sương sớm cầu Long Biên. Ảnh: Đỗ Thành Trung.

Nhưng đó là ngày ấy, ngày còn trẻ thơ và chưa từng trải gì. Thời gian sau, tôi được chứng kiến những cuộc tiễn đưa ở nhà ga này, nhất lại tiễn đưa người lính ra trận, mới thấm thía và ám ảnh bởi tiếng còi tàu ấy, giây phút chia ly nghe nó rền rĩ, rưng rưng làm sao. Cứ mỗi mùa xuân, (cho đến nay, tôi vẫn chưa giải thích được tại sao ta thường ra trận vào mùa xuân) tôi lại chứng kiến không biết bao nhiêu chuyến tàu chở bộ đội nối nhau đi về phương Nam. Cả đoạn đường dọc cửa ga xanh một màu áo lính. Và mỗi chuyến tàu là một cuộc tiễn đưa, bịn rịn, luyến lưu, có tiếng cười động viên và cả những giọt nước mắt không kìm chế nổi khi tiếng còi tàu rúc lên báo hiệu phút chia tay đã đến…

Để rồi, có thể một đôi khi ai đó tình cờ qua phố ga, nghe tiếng còi tàu, lòng bỗng dâng lên nỗi buồn khó tả. Ấy là nói những ai ở xa, chứ nằm trên con phố cách nhà ga mấy bước chân đường nhựa, hằng ngày hằng đêm nghe tiếng còi tàu hỏa, mà tâm trạng tôi vẫn luôn dâng trào cảm giác bâng khuâng, xao động.

Một lần, có hai anh bộ đội, ba lô quần áo mới tinh, vào hàng tôi gọi hai chén trà. Anh nọ giục bạn: “Uống nhanh rồi đi, kẻo sắp đến giờ tàu chạy rồi”. “Tớ không khát…”. “Chè mạn đâu phải cho đỡ khát. Uống đi, kẻo mai lên đơn vị không có chè mà uống đâu…”. “Mấy ngày phép, cậu đi được những đâu ?”. “À… Chủ yếu đi chụp ảnh và khoe gia đình, bè bạn bộ đồ lính mới, rồi đảo thăm khắp lượt họ hàng… Buồn cười nhất lần đến nhà bà dì trước ngày hết phép, bà trách “sao hôm nay mới đến”, tớ lý do “cháu đi chụp ảnh”, bà gắt “Sắp ra trận chụp ảnh làm gì ?”, “Để mai mốt nhỡ có mệnh hệ gì nhà còn có… ảnh thờ !”, không ngờ chỉ tếu táo thế mà dì gạt nước mắt, sau đó bà cho tiền, nhiều gấp mấy lần khi đến nhà cô bác khác… Đến giờ nghĩ lại, tớ cứ ân hận mãi vì trò đùa ấy, và cứ thắc mắc dì cho tiền thằng cháu sắp ra trận để làm gì nữa…”.

Nghe cuộc đối thoại của hai anh lính, tôi tò mò hỏi : “Các cậu nhập ngũ lâu chưa ?”. “Mới được ba tháng ạ, nhìn quân phục còn mới thế này anh không đoán được sao. Nghe nói đợt này sắp đi chiến trường nên trên mới cho về phép, chẳng biết có đúng không. Nếu đúng vậy thì đây có thể là lần cuối cùng tụi em đến ga Hàng Cỏ này…”. Câu trả lời rất hồn nhiên và thật thà của anh lính mới khiến tôi đầy thiện cảm và không khỏi xúc động. Đúng lúc ấy, tiếng còi tàu rúc lên, họ vội vã đứng lên và giục nhau: “Đến giờ tàu chuyển bánh rồi đấy, mình vào ga thôi…”. Tôi xua tay khi anh nọ trả tiền, và hỏi thêm: “Các cậu quê đâu đấy ?”. “Bọn em đều Hà Nội cả, cũng quanh phố đây mà, nay là lính Hà Nội rồi. Chỉ có dân ở gần nhà ga mới thuộc tiếng còi tàu vừa đến hay sắp đi thôi… Cảm ơn và tạm biệt anh nhé, nhưng không dám hẹn gặp lại, đời lính thời đạn bom, sao mà đoán trước được ngày mai…”.

Chuyện của hai anh tân binh, mộc mạc và đơn giản vậy thôi, mà cứ làm tôi suy nghĩ mãi về tuổi trẻ của đất nước chiến tranh, về những thanh niên thành phố những năm tháng ấy.

Thế rồi, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc đã lan tới Hà Nội. Bom rơi trên các Phố Huế, Bà Triệu, Nguyễn Du và rất nhiều con phố của Thủ đô. Cổng chính ga Hàng Cỏ cũng bị trúng bom, gục xuống đổ nát, và đương nhiên nhà ga phải ngừng hoạt động nhiều ngày để khắc phục hậu quả.

Nghe tin phố nhà bị đánh bom, anh em tôi kéo nhau từ chỗ sơ tán về hết. Đêm đầu sau trận bom và nhiều đêm sau nữa, phố ga lặng lẽ như tờ, không gian im lặng dễ sợ. Đến lúc này, chúng tôi bỗng thèm nghe một tiếng còi tàu quen thuộc và thân thương ! Phố không còn sự nhộn nhịp hằng ngày với tiếng loa vọng về từ sân ga theo chiều gió. Kỳ lạ, đó là những đêm hầu hết bà con phố ga dường như mất ngủ, hay đúng hơn, không sao chợp mắt nổi. Tôi bỗng hiểu sâu sắc, rằng: thật là nuối tiếc khi không còn nữa, những thứ thân thuộc quanh mình, dù chỉ là những điều giản dị, bình thường nhất.

Năm ấy, tôi đang học dở lớp10, năm cuối cùng phổ thông. Và bất ngờ khi trở lại lớp thấy nhà trường thông báo “đặc cách cấp bằng tốt nghiệp” cho hàng loạt học sinh sẽ lên đường nhập ngũ đợt này. Tôi có tên trong danh sách ấy.

Một góc Ga Hàng Cỏ xưa.

Một góc Ga Hàng Cỏ xưa.

Đến ngày hội tòng quân, cũng là dịp gần Tết, nhà ga đã hoạt động trở lại, và chúng tôi cũng lên đường từ ga Hàng Cỏ. Mẹ và các em tôi rơm rớm nước mắt khi tôi từ trên cửa toa vẫy xuống. Rồi tôi quay ngoắt vào trong khi tiếng còi tàu chợt rúc lên, tiếng còi như báo hiệu sự chia ly, xa cách từ đây. Đoàn tàu chuyển bánh xình xịch đi về phía Nam, qua nhiều ba-ri-e trong thành phố, thêm nhiều lần rúc còi nữa, cái tiếng còi buồn nẫu ruột khiến tôi không thể nào quên.

Chúng tôi tới chiến trường B2-Bắc Quảng Trị, đúng vào giai đoạn giao tranh ác liệt nhất của cuộc chiến. “Đại đội tú tài” - tên mọi người thường gọi lứa học sinh lớp mười Hà Nội chúng tôi - hy sinh gần hết. Tôi bị thương bởi mảnh đạn cối cá nhân chém qua bả vai, được chuyển về quân y viện tiền phương cùng một số chiến sĩ khác, điều trị rồi cho về Bắc.

Trở về căn nhà trước ga Hàng Cỏ khi cậu em trai cũng vừa tòng quân tháng trước. Mẹ tôi an ủi : “Còn sống mà trở về là may mắn lắm rồi. Lại phụ mẹ trông hàng để nhà có thu nhập, giờ chỉ còn lo cho bố và em con thôi. Cả hai đang biền biệt phương nào…”.

Tôi lại ngồi với hàng nước “chè xu” giữa lúc chiến trường đang sôi sục. Khách ngồi quán bấy giờ chủ yếu là bộ đội. Hình như biết tôi là thương binh, các anh càng ghé vào nhiều hơn. Phố ga tấp nập một màu xanh áo lính. Họ là những thanh niên Hà Nội, và cả ở những miền quê khác nhau, nhưng thảy đều giống nhau một điều, đều tụ họp về ga Hàng Cỏ để lên đường ra trận. “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng !”, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, đã có lớp lớp người trẻ tình nguyện vào quân đội, hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước.

Ngày đêm, riếng còi tàu lại rúc lên dọc phố ga, tiếng còi đưa những đoàn tàu chở cả tuổi thanh xuân hát vang bài ca ra chiến tuyến, sôi nổi, vô tư đến hồn nhiên. Đến bấy giờ thì với tôi, trong âm thanh của tiếng còi tàu dường như đang dậy lên giai điệu reo vui, giai điệu lạc quan, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng.

Bất chợt cho đến một buổi tối, sau khi nhận được bức điện tín, mẹ tôi nín lặng lên gác rồi ở im trong phòng, không nói nửa lời. Sáng sau, thấy tôi lục tục bê bàn ghế ra, mẹ bảo: “Hôm nay nghỉ, không dọn hàng nữa!... Lát sang ga với mẹ”. Tôi ngạc nhiên: “Sao ạ? Sang ga làm gì cơ…”. Như không nhịn nổi nữa, mẹ òa lên mếu máo : “Bố con hy sinh rồi ! Đơn vị đưa hài cốt ông về, chuyến tàu sáng nay…”.

Từng mục kích nhiều cảnh tiễn đưa, chứng kiến nhiều cuộc rước đón đầy xúc động, chủ yếu của thân nhân những người lính, ra trận và trở về. Nhưng hôm nay, đến lượt chính gia đình mình. Tôi cùng mẹ và chú, bác đón bố về trong vuông quách phủ Quốc kỳ đẫm nước mắt. Mới biết rằng, những hy sinh, mất mát và rủi ro trong chiến tranh không né tránh bất cứ gia đình nào trên cố đô Thăng Long này! Đổ nát và tang tóc có thể đến bất cứ số nhà nào trong thành phố thân yêu.

* * *

Đến hôm nay, tôi đã tốt nghiệp Trường Đại học Giao thông vận tải, ngành đường sắt. Cậu em trai cũng đã phục viên, vào làm ở ga Hà Nội, nhận chân chuyên lái tàu. Với chúng tôi, cứ mỗi độ xuân về, tiếng còi tàu và những câu chuyện xung quanh nhà ga mãi in trong ký ức không thể nào quên. Ký ức của lớp trai trẻ thủ đô, ký ức của Hà Nội những tháng năm bi tráng và hào hùng.

Bây giờ, nhà ga không dùng đầu máy hơi nước nữa, tiếng còi tàu tuy đã khác xưa, nhưng chắc chắn mỗi độ xuân về, vẫn mang đến cho những ai nghe thấy một cảm xúc và tâm trạng đa chiều khó mà diễn tả.

Lê Tấn Hiển

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/phong-su/ngay-xuan-nho-tieng-coi-tau-va-nhung-hoi-uc-pho-ga-i755875/