Nghệ sĩ Ngô Hồng Quang – người tạo cuộc sống mới cho âm nhạc dân tộc
Nghệ sĩ Ngô Hồng Quang luôn ý thức trân trọng di sản và khát vọng tìm kiếm con đường mới cho âm nhạc dân tộc. Những dự án của anh đã khẳng định hướng tiếp cận sáng tạo, trong đó âm nhạc dân tộc không bị 'đóng khung' bảo tồn mà tiếp tục sống, lan tỏa.
Sinh năm 1983 tại Hải Dương (cũ) nay là TP Hải Phòng, Ngô Hồng Quang lớn lên trong môi trường văn hóa truyền thống, thừa hưởng tình yêu âm nhạc từ người ông nội - một nghệ nhân đàn nhị gắn bó với gánh hát chèo của địa phương. Nền tảng ấy sớm hình thành trong Quang ý thức trân trọng di sản và khát vọng tìm kiếm con đường mới cho âm nhạc dân tộc. Năm 2014, anh theo học Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và trở thành giảng viên. Sau đó, Ngô Hồng Quang tiếp tục theo đuổi sáng tác âm nhạc đương đại tại Nhạc viện Hoàng gia Den Haag (Hà Lan), sau khi giành học bổng toàn phần của Chính phủ Hà Lan.

Nghệ sĩ Ngô Hồng Quang
Từ năm 2016 đến nay, Ngô Hồng Quang được nhìn nhận như một nghệ sĩ dân tộc độc lập, đồng thời là gương mặt tiêu biểu trong việc đưa âm nhạc truyền thống Việt Nam đối thoại với thế giới đương đại. Trên hành trình biểu diễn tại hơn 40 quốc gia, anh kiên định lựa chọn chất liệu dân gian - từ chèo, xẩm, quan họ, dân ca Huế, Nam Bộ đến âm nhạc các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc - kết hợp ngôn ngữ âm nhạc phương Tây như jazz, ngũ tấu đàn dây, nhưng không làm mất đi tinh thần Việt.
Những dự án như Song hành, Hanoi Duo, Nam Nhi, Rạng đông đã khẳng định hướng tiếp cận sáng tạo, trong đó âm nhạc dân tộc không bị “đóng khung” bảo tồn mà tiếp tục sống, lan tỏa và khẳng định giá trị trong đời sống đương đại và trên bản đồ âm nhạc quốc tế.
PV: Nếu không tận mắt nhìn anh biểu diễn bài hát “Gọi em” và độc tấu đàn môi thì người nghe dễ tưởng tượng phần trình diễn là do một chàng trai Mông thể hiện đấy. Anh có thể chia sẻ một chút về bài hát này?
Ngô Hồng Quang: "Gọi em" là bài dân ca của dân tộc Mông. Bài dân ca gốc dài tới vài giờ. Sau khi nghiên cứu, tôi đã chắt lọc những đoạn mà nam, nữ hát với nhau, đối với tôi là hay nhất và phần lời dễ nghe nhất để biến nó là bài “Gọi em”. Người Mông đứng ở trên núi, họ đối đáp nhau, gọi nhau qua những địa hình hiểm trở nó tạo ra những tiếng vọng. Tiếng vọng đó tạo ra chất kết nối trong âm nhạc. Âm nhạc trong bài cũng chuyển động lên xuống như chính dáng núi trùng điệp. Lời ca và giai điệu vẫn là của người Mông, phần hòa âm, phối khí tôi phát triển thêm vào để tạo nên không gian âm nhạc mới trên nền chất liệu truyền thống đó.

PV: Anh học tiếng như thế nào để có thể hát như người Mông hát?
Ngô Hồng Quang: Tôi chủ yếu nghe trên băng đĩa để phân tích ra cách phát âm, ngữ điệu và lỗi ngân của người Mông, sau đó ghi chép và tập theo. Sau 10 ngày tập, tôi có thể hát tương đối hoàn chỉnh bài hát đó. Sau này, trong một chuyến đi điền dã tại Hà Giang, tôi đã hát cho khoảng 10 người Mông ở làng Lùng Tám, Hà Giang nghe. Họ phản hồi rất tích cực, chia sẻ rằng họ hiểu trọn vẹn lời và rất thích thú, thậm chí vỗ tay cổ vũ ngay tại chỗ.
PV: Với đàn môi, hẳn Quang phải nghiên cứu rất kỹ mới có thể chơi điệu nghệ và có cách biến tấu đàn môi độc đáo như vậy?
Ngô Hồng Quang: Tôi có sự yêu thích đặc biệt với đàn môi của người Mông. Thực tế, tôi đã tiếp cận với nhạc cụ này trước khi nghiên cứu về âm nhạc dân tộc thiểu số. Với tôi, đàn môi là một cái cầu nối để bước vào thế giới âm nhạc của đồng bào dân tộc bào thiểu số. Từ đó, tôi tiếp tục tìm hiểu và thực hành nhiều nhạc cụ khác như kèn lá, đàn nhị Mông.
PV: Âm nhạc dân tộc lại đi vào trong các tác phẩm của anh một cách tự nhiên, không khiên cưỡng. Phải chăng điều này đến từ sự am hiểu sâu sắc nhạc cụ và đời sống văn hóa của chính cộng đồng đồng bào đang sở hữu loại hình âm nhạc đó?
Ngô Hồng Quang: Phần lời cũng như cách sử dụng nhạc cụ dân tộc thiểu số tôi sử dụng đều do tự học, tự tìm cách tiếp cận. Tôi quan niệm không chỉ học cách chơi mà còn tìm cách bảo tồn, bổ sung cho mỗi nhạc cụ một đời sống mới thông qua các sáng tác. Tôi tìm hiểu chất liệu dân gian, đặt nó vào những cấu trúc âm nhạc để nhạc cụ vẫn giữ được tinh thần văn hóa truyền thống và có thêm không gian biểu đạt đương đại.
Khi đó, âm nhạc trở nên phong phú hơn, mở rộng hơn chứ không chỉ dừng lại ở việc tái hiện. Trong một số tác phẩm, tôi sử dụng kỹ thuật hát đặc trưng của người Mông và các dân tộc vùng Tây Bắc. Những lối luyến láy, nhịp điệu gắn với địa hình núi non khi kết hợp với hòa âm phối khí đương đại, âm nhạc tạo nên cảm giác về một không gian rộng mở, giàu tính thiên nhiên và dễ tiếp cận với người nghe quốc tế.

PV: Theo anh, đâu là ranh giới để khai thác chất liệu truyền thống mà không bị trộn lẫn hoặc làm mất đi bản sắc?
Ngô Hồng Quang: Với tôi, lợi thế lớn nhất là tôi trực tiếp chơi các loại nhạc cụ mình đã sáng tác từ chất liệu này. Khi người sáng tác cũng là người biểu diễn, sự chuyển tải cảm xúc và tư duy âm nhạc sẽ liền mạch và chân thực hơn. Âm nhạc đi thẳng từ suy nghĩ của mình ra cây đàn, không phải thông qua lớp trung gian khác.
Trong các buổi biểu diễn, tôi thường chia chương trình thành hai phần: phần đầu, tôi chơi những bài truyền thống Việt Nam mộc, để khán giả hiểu âm nhạc nguyên bản như thế nào. Phần sau là các sáng tác đương đại, nơi các chất liệu truyền thống được đặt trong ngôn ngữ âm nhạc mới. Cách tiếp cận này giúp khán giả quốc tế vừa được nhận diện bản sắc, vừa thấy được Việt Nam hôm nay đang vận động, sáng tạo ra sao. Từ âm nhạc, họ tò mò tìm hiểu thêm về văn hóa, con người, đất nước, đó cũng là một cách quảng bá rất hiệu quả.
PV: Trong hành trình đưa văn hóa Việt Nam đi ra thế giới, anh rút ra điều gì từ cách người trẻ quốc tế tôn vinh bản sắc văn hóa cộng đồng của họ?
Ngô Hồng Quang: Tôi thấy có hai xu hướng rõ rệt. Một là những người nghệ sĩ chỉ tập trung trình diễn âm nhạc truyền thống nguyên bản và mang đi khắp thế giới như một hình thức giới thiệu di sản. Hai là cách tiếp cận như tôi đang theo đuối: vừa giữ phần cốt lõi, nguyên bản của âm nhạc truyền thống, vừa sáng tác tác phẩm mới, đối thoại với các ngôn ngữ âm nhạc đương đại quốc tế. Với tôi, sự kết hợp này tạo nên một tổng thể đầy đủ hơn, giúp di sản không bị đóng khung và tiếp tục sống và phát triển trong bối cảnh mới.
PV: Xin cảm ơn nghệ sĩ Ngô Hồng Quang.












