Nghề truyền thống giữa ngã ba thời đại

Giữa dòng chảy hội nhập và đô thị hóa, nghề truyền thống đang ở ngã ba thời đại: hoặc thích ứng để hồi sinh, hoặc lặng lẽ mai một. Ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên, câu chuyện 'giữ nghề hay rẽ phố' không chỉ là lựa chọn mưu sinh, mà còn là nỗi trăn trở giữ hồn văn hóa giữa nhịp sống hiện đại.

Các nghệ nhân Chăm xã Bắc Bình trình diễn giai điệu dân gian truyền thống

Các nghệ nhân Chăm xã Bắc Bình trình diễn giai điệu dân gian truyền thống

Giữ nghề giữa cơn lốc đổi thay

Lâm Đồng đang phát triển mạnh mẽ, kết nối cao nguyên với đồng bằng và biển cả, mở ra thị trường rộng lớn hơn cho nông sản, thủ công mỹ nghệ và du lịch văn hóa. Đối với các nghề truyền thống, đây là cơ hội quý báu: mở rộng thị trường, liên kết vùng miền và khai thác tiềm năng du lịch làng nghề.

Theo Quyết định số 1766/QĐ-UBND năm 2022, tỉnh phê duyệt kế hoạch bảo tồn và phát triển làng nghề giai đoạn 2022 - 2030, đặt mục tiêu đến năm 2025 bảo tồn 17 làng nghề truyền thống, phát triển mới 4 làng nghề, gắn với chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) và du lịch cộng đồng, hướng tới 39 làng nghề vào năm 2030. Tuy nhiên, hiện nay toàn tỉnh chỉ còn khoảng 30 - 35 làng nghề hoạt động, thu hút hơn 9.200 lao động. Nhiều làng nghề đang đối mặt với nguy cơ mai một do thiếu người kế thừa và đầu ra sản phẩm bấp bênh. Đô thị hóa cuốn theo thế hệ trẻ ra phố, để lại khung cửi K’ho phủ bụi, tiếng búa rèn của người Mạ thưa thớt, lò gốm thủ công nguội lạnh theo năm tháng. “Nghề có nuôi nổi mình không?” - câu hỏi giản dị, đầy băn khoăn từ một nghệ nhân trẻ khơi dậy nỗi trăn trở sâu thẳm của miền sơn nguyên.

Song, ở những làng nghề trải dài vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, những người phụ nữ vẫn đang miệt mài bên khung cửi, kéo sợi rừng, dệt nên tấm thổ cẩm thấm đẫm huyền thoại Mẹ Đất và hơi thở núi rừng. Mỗi đường nét, mỗi họa tiết không chỉ là vật trang sức, mà còn là bản hùng ca bằng vải: lưu giữ ký ức tổ tiên, gửi gắm hi vọng mùa màng bội thu và sự cân bằng giữa con người với thiên nhiên. Tương tự, ở xưởng làm gốm, lò rèn hay những làng nghề đan lát truyền thống, người thợ vẫn tỉ mỉ chọn tre già cho độ dẻo dai, rèn lửa vừa phải để giữ hồn đất trời trong từng sản phẩm. Bởi với họ, nghề không chỉ là kế sinh nhai, mà là sợi dây thiêng liêng nối liền cộng đồng với cội nguồn. Khi nghề mai một, không chỉ sinh kế lung lay mà hồn văn hóa của vùng đất cũng phai nhạt dần.

Không gian tái hiện nghề truyền thống của đồng bào các dân tộc miền duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên

Không gian tái hiện nghề truyền thống của đồng bào các dân tộc miền duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên

Trước nguy cơ mai một của nghề truyền thống, ở vùng giao thoa giữa duyên hải và cao nguyên, những chiếc bánh gừng truyền thống của người Chăm vẫn được nặn bằng tay, hình củ gừng, dùng để dâng cúng trong Lễ hội Katê tháng 10 hằng năm. Bánh được làm từ nếp thơm, trứng gà, đường thốt nốt và nước gừng tươi, nướng bằng than củi, mỗi chiếc bánh không chỉ là món ăn dân dã mà còn là một lát cắt ký ức về tổ tiên và niềm tin tâm linh của cả cộng đồng.

Nghệ nhân Đặng Thị Ngọc Hà, ở Bắc Bình chia sẻ: “Bánh gừng không chỉ là món ăn, mà là ký ức của tổ tiên”. Thế nhưng, điều đáng lo là lớp trẻ trong làng ngày càng ít người biết nặn bánh, nhiều người rời quê đi làm ăn xa, lò nướng truyền thống vắng lửa. Năm 2025, Lễ hội Katê vẫn thu hút hàng ngàn du khách đến trải nghiệm nặn bánh và nghe kể chuyện nghề xưa; nhưng giữa dòng người tấp nập ấy, nỗi lo nghề mất, văn hóa dần phai, vẫn âm ỉ như ngọn than trong lò nướng bánh đang dần nguội. Cùng với đó, ở làng gốm Bình Đức, nghề gốm Chăm được nối dài từ truyền thống Bàu Trúc vẫn được nghệ nhân Trượng Thị Gạch, nay đã ngoài 80, kiên trì gìn giữ. Bà nặn đất sét pha cát sông, tạo hình hoàn toàn bằng tay, rồi nung lộ thiên bằng củi rừng; mỗi sản phẩm mất từ 7 - 10 ngày để hoàn thiện, mang màu đen huyền như lời nguyện gửi đến nữ thần Po Inư Nagar.

Những người như bà Gạch, bà Hà và bao nghệ nhân khác là mạch nguồn sống của văn hóa bản địa. Nhưng chính họ cũng day dứt: “Cha ông sống bền với nghề vì nghề nuôi được hồn người. Giờ con cháu không còn sống bằng nghề thì cái hồn ấy biết gửi đâu?”, nghệ nhân Trượng Thị Gạch trăn trở. Khi nghề mai một, không chỉ mất đi một kế sinh nhai, mà còn mất đi một phần linh hồn của văn hóa, thứ tài sản vô giá mà thời gian hay tiền bạc đều không thể bù đắp.

Công nghệ giữ hồn văn hóa

Nếu như vài năm trước, công nghệ và đô thị hóa từng được xem là “thách thức lớn” đối với nghề truyền thống, thì nay, chính thời đại số lại mở ra một con đường hồi sinh mới. Từ những khung cửi ở thôn K’long (xã Đức Trọng), nơi nhóm thanh niên K’ho đang “thổi làn gió mới” vào nghề dệt truyền thống bằng cách đưa thổ cẩm lên sàn thương mại điện tử, tổ chức tuyên truyền du lịch trải nghiệm “Một ngày làm thợ dệt K’ho” đến những xưởng tre, mây, gỗ ở Di Linh, nơi người thợ vẫn miệt mài sáng tạo để gửi gắm hồn cốt cao nguyên vào từng món đồ thủ công; tất cả đang cùng nhau tạo nên một diện mạo mới cho nghề truyền thống trong thời đại số. Cũng trên hành trình ấy, ở thôn Gung Ré, nghệ nhân Ma Liêng, thường gọi bà Ma Li vẫn bền bỉ giữ lửa nghề gốm thủ công, đón du khách đến trải nghiệm nặn gốm, nghe kể chuyện làng nghề và mang về một món quà nhỏ thấm đẫm hồn đất cao nguyên. Đặc biệt hơn, ngày nay, thổ cẩm K’ho có thể trở thành áo dài cách tân trên sàn diễn; gốm Churu thành quà lưu niệm cao cấp; đan lát tre, mây thành nội thất xuất khẩu. Người làm nghề không chỉ cần đôi tay khéo mà cần cả tư duy kết nối, biết kể lại câu chuyện văn hóa bằng ngôn ngữ thị trường và công nghệ.

Nghệ nhân Đặng Thị Ngọc Hà và con gái đang nặn những chiếc bánh gừng truyền thống

Nghệ nhân Đặng Thị Ngọc Hà và con gái đang nặn những chiếc bánh gừng truyền thống

Những thay đổi ấy cho thấy công nghệ nay đã trở thành nhịp cầu nối, giúp người giữ nghề bước qua lằn ranh giữa truyền thống và hiện đại, đưa hồn làng nghề lan tỏa giữa nhịp sống mới của cao nguyên. Theo bà Nguyễn Thị Bích Ngọc - Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng: “Chúng tôi xác định văn hóa là động lực phát triển bền vững. Tỉnh đang triển khai hỗ trợ nghệ nhân đào tạo kỹ năng số, vốn vay ưu đãi cho làng nghề và lồng ghép với chương trình OCOP, du lịch cộng đồng. Công nghệ nay trở thành cánh tay nối dài giúp những người giữ nghề truyền thống tìm lại chỗ đứng giữa nhịp sống hiện đại”.

Giữ nghề hôm nay không có nghĩa là giữ nguyên cách làm cũ, mà là giữ tinh hoa và thay đổi cách làm. Khi nghề truyền thống biết thích ứng, số hóa và kết nối. Giữa ngã ba của thời đại, cái cần giữ không chỉ là nghề mà là hồn nghề. Và có lẽ, trên vùng đất Lâm Đồng đang đổi thay từng ngày, tiếng khung cửi, tiếng búa rèn, tiếng nặn gốm vẫn sẽ còn “vang vọng”, không phải như hoài niệm mà như nhịp đập của tương lai.

Ánh Nguyệt .

Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/nghe-truyen-thong-giua-nga-ba-thoi-dai-398461.html