Nghị quyết 68-NQ/TW: Mở 'cánh cửa' tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Tiếp cận vốn từ lâu là một bài toán nan giải đối với doanh nghiệp (DN). Do đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68) đã đặt ra những giải pháp toàn diện, đồng bộ nhằm hỗ trợ DN tiếp cận vốn, được kỳ vọng sẽ giúp giải tỏa áp lực vay vốn, bảo đảm dòng tài chính phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, từ đó đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước.

DN vẫn phụ thuộc nhiều vào vốn tín dụng ngân hàng. Ảnh minh họa

DN vẫn phụ thuộc nhiều vào vốn tín dụng ngân hàng. Ảnh minh họa

Định hướng tổ chức tài chính, tín dụng linh hoạt hình thức cho vay

Trong cơ cấu vốn của DN, thường bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Tuy nhiên, do phần lớn DN Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn chế nên vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay, chủ yếu từ hệ thống ngân hàng thương mại - nơi vốn tiếp cận không dễ dàng và chứa đựng nhiều rủi ro.

Theo kết quả điều tra Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2024 của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có 54% DN gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng và đây là khó khăn lớn nhất của DN.

Từ thực tế đó, tại Nghị quyết 68, vấn đề đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho DN được xác định là yêu cầu then chốt. Theo đó, Nghị quyết khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất - kinh doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị…; đồng thời chấp nhận nhiều loại tài sản bảo đảm như động sản, tài sản vô hình, tài sản hình thành trong tương lai và cả hình thức vay tín chấp.

Đánh giá về chủ trương này, ông Nguyễn Quang Huy (Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi) cho rằng đây là bước chuyển từ mô hình tín dụng dựa trên “tài sản quá khứ” sang “giá trị tương lai” - rất cần thiết, đặc biệt với DN nhỏ, DN khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, để chính sách thực sự đi vào cuộc sống mà không gây rủi ro hệ thống, cần một “cuộc lột xác kép” từ cả phía ngân hàng và DN.

Với các tổ chức tín dụng, yếu tố cốt lõi là chuyển đổi mô hình thẩm định rủi ro từ “tĩnh” sang “động”: thay vì chỉ căn cứ tài sản thế chấp, ngân hàng cần đánh giá năng lực tạo dòng tiền, độ minh bạch dữ liệu, vị thế trong chuỗi cung ứng… Để thực hiện, ngân hàng phải tích hợp thông tin từ công nghệ dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), xếp hạng tín nhiệm nội bộ... nhằm xác định năng lực tín dụng thực chất.

Ở chiều ngược lại, DN cũng cần “chuyển mình”. Cụ thể, DN phải số hóa kế toán, tập trung dòng tiền về tài khoản chính, tuân thủ nghĩa vụ thuế, bảo hiểm xã hội, minh bạch thông tin với đối tác, xây dựng hệ thống quản trị nội bộ rõ ràng. “Mỗi dòng dữ liệu chuẩn là một tài sản vô hình có thể bảo lãnh. Chỉ khi DN thể hiện được kỷ luật tài chính và sự minh bạch trong vận hành thì ngân hàng mới đủ cơ sở cho vay tín chấp. Ngược lại, ngân hàng cũng cần mô hình thẩm định phù hợp với tài sản phi truyền thống, để vốn đến đúng nơi cần đến” - ông Huy nhấn mạnh.

Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng

Bên cạnh yêu cầu đa dạng hóa nguồn vốn, Nghị quyết 68 cũng nhấn mạnh giải pháp củng cố các quỹ bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa (DNNVV), cả ở Trung ương và địa phương; đồng thời, khuyến khích các tổ chức tài chính, DN lớn tham gia bảo lãnh cho các khoản vay của DNNVV.

Ông Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV TP. Hà Nội - cho rằng đây là giải pháp căn cơ giúp giảm rủi ro cho ngân hàng và mở cơ hội tiếp cận vốn cho những DN có tiềm năng nhưng thiếu tài sản thế chấp. Tuy nhiên, thời gian qua các quỹ bảo lãnh ở địa phương hoạt động chưa hiệu quả, quy mô nhỏ, quy trình phê duyệt còn rườm rà, thiếu phối hợp với các ngân hàng thương mại, khiến DNNVV không thể tiếp cận nguồn vốn phù hợp.

Theo đó, ông Quốc Anh cho rằng cần hoàn thiện mô hình các quỹ bảo lãnh để đáp ứng yêu cầu phát triển, đồng thời biến hệ thống quỹ này thành “bệ đỡ” tài chính đáng tin cậy. Ông đề xuất thống nhất mô hình tổ chức quỹ bảo lãnh trên toàn quốc, ban hành một nghị định riêng quy định mô hình hoạt động theo hướng trao quyền tự chủ, linh hoạt trong thẩm định và quản trị rủi ro, chịu sự giám sát trực tiếp của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, cần tăng vốn điều lệ cho các quỹ này thông qua vốn đối ứng từ Chính phủ hoặc cho phép địa phương dùng ngân sách để cấp vốn lại.

Về chủ trương khuyến khích DN lớn tham gia bảo lãnh vay cho DNNVV, ông Nguyễn Quang Huy đánh giá đây là giải pháp khả thi. Bởi các tập đoàn đầu chuỗi có lợi ích trực tiếp trong việc nâng cao năng lực tài chính và vận hành của nhà cung ứng, đặc biệt trong các lĩnh vực như công nghiệp hỗ trợ, chế biến - chế tạo, nông nghiệp công nghệ cao… Do đó, họ có động lực tự nhiên để “bảo lãnh” cho DN nhỏ nhằm bảo đảm sự ổn định của chuỗi cung ứng, giảm chi phí dài hạn. Đây là mối quan hệ “win - win”, cùng có lợi.

Không chỉ khơi thông kênh hỗ trợ vốn, để nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của DN, Nghị quyết 68 còn đặt ra yêu cầu về kết nối, chia sẻ thông tin giữa hệ thống ngân hàng, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan; bảo đảm dữ liệu liên thông, giúp đánh giá chính xác hơn về tình hình hoạt động và năng lực tài chính của DN. Đồng thời, Nghị quyết yêu cầu các tổ chức tín dụng, quỹ tài chính, tổ chức xếp hạng tín nhiệm thứ ba tăng cường chấm điểm tín dụng và cho vay dựa trên dữ liệu khách quan.

Theo ông Nguyễn Quang Huy, việc xây dựng hệ thống dữ liệu tập trung dựa trên kết nối, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý và mô hình chấm điểm tín dụng độc lập sẽ giúp ngân hàng đánh giá chính xác năng lực tín dụng của DN thay vì chỉ dựa vào tài sản thế chấp. “Các mô hình đánh giá hiện đại dựa trên dòng tiền, giao dịch thuế, hóa đơn điện tử, bảo hiểm xã hội, mối quan hệ đối tác… nếu được kết nối liên thông sẽ hình thành một “hồ sơ tín nhiệm số” - là tấm “hộ chiếu tài chính” giúp DN giao dịch với ngân hàng thuận lợi hơn và tiếp cận vốn dễ dàng hơn”, ông Huy chia sẻ./.

DIỆU THIỆN

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/nghi-quyet-68-nq-tw-mo-canh-cua-tiep-can-von-cho-doanh-nghiep-41262.html