Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhânBài cuối: Đột phá tư duy, nâng tầm vị thế kinh tế tư nhân

Hành trình của kinh tế tư nhân Việt Nam đã ghi dấu bước chuyển mình ngoạn mục: từ vị thế 'thành phần bổ trợ' vươn mình trở thành 'đối tác phát triển' chiến lược của Nhà nước. Sự thay đổi mang tính lịch sử này được thể hiện rõ nét trong Nghị quyết 68-NQ/TW, không chỉ đơn thuần là một điều chỉnh chính sách, mà là một cuộc cách mạng trong tư duy, mở ra kỷ nguyên mới cho khu vực kinh tế năng động này.

Một hành trình lịch sử

Để thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa của sự chuyển đổi này, cần nhìn lại chặng đường phát triển đầy gian nan nhưng cũng rất đỗi tự hào của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam; trước Đổi mới năm 1986, nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, trong đó doanh nghiệp nhà nước (SOEs) là trụ cột. Kinh tế tư nhân, nếu có tồn tại, chỉ ở quy mô nhỏ, chịu sự kiểm soát chặt chẽ và thường bị xem là biểu tượng của chủ nghĩa tư bản, không được công nhận là động lực kinh tế mà chỉ là thành phần “bổ trợ” cho khu vực nhà nước.

Sở Công Thương Long An ký kết với Tập đoàn Zenith về nghiên cứu, hỗ trợ phát triển lĩnh vực thương mại trên địa bàn tỉnh. Ảnh: T. Bạch

Sở Công Thương Long An ký kết với Tập đoàn Zenith về nghiên cứu, hỗ trợ phát triển lĩnh vực thương mại trên địa bàn tỉnh. Ảnh: T. Bạch

Sau Đổi mới, cơ chế thị trường dần được thừa nhận, mở đường cho khu vực tư nhân cất cánh; đến cuối những năm 1990, hàng vạn doanh nghiệp tư nhân ra đời, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, vị thế của khu vực này vẫn còn khiêm tốn, thường gặp rào cản về tiếp cận nguồn lực (vốn, đất đai), thủ tục hành chính phức tạp và cả những định kiến xã hội.

Nghị quyết 68-NQ/TW đã tạo ra một bước ngoặt mang tính quyết định, thay đổi căn bản cách nhìn nhận về kinh tế tư nhân. Bằng việc chính thức công nhận khu vực này là “đối tác phát triển” quan trọng, Nghị quyết không chỉ nâng cao vị thế pháp lý và xã hội của doanh nghiệp tư nhân mà còn khẳng định vai trò tiên phong của họ trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia.

Từ kiểm soát đến đồng hành kiến tạo

Sự chuyển đổi từ “thành phần bổ trợ” sang “đối tác phát triển” trong Nghị quyết 68-NQ/TW là minh chứng rõ nét cho sự trưởng thành trong tư duy lãnh đạo, quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước. Thay vì xem doanh nghiệp tư nhân như đối tượng cần quản lý, kiểm soát chặt chẽ, Nhà nước giờ đây nhìn nhận khu vực này như một đối tác bình đẳng, cùng chia sẻ trách nhiệm và đồng hành kiến tạo sự phát triển. Đây là sự dịch chuyển mạnh mẽ từ tư duy “quản lý, áp đặt” sang “hỗ trợ, kiến tạo và đồng hành”.

Thay đổi này không chỉ mang ý nghĩa lý luận sâu sắc mà còn có giá trị thực tiễn to lớn. Công nhận vai trò trung tâm, là động lực chính của nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) - lực lượng năng động, tiên phong trong tạo việc làm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đồng thời, việc đề cao và tôn vinh tinh thần doanh nhân, xem họ là những “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”, đang từng bước xóa bỏ định kiến, xây dựng văn hóa tôn trọng doanh nhân và khơi dậy mạnh mẽ khát vọng khởi nghiệp, làm giàu chính đáng trong toàn xã hội.

Hiện thực hóa vai trò đối tác bằng những chính sách đột phá

Để biến quan điểm “đối tác phát triển” thành hiện thực sinh động, Nghị quyết 68-NQ/TW đã đề ra một loạt chính sách hỗ trợ mang tính đột phá, tạo môi trường thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp tư nhân bứt phá: giảm gánh nặng hành chính - mục tiêu đến năm 2025, giảm 30% thời gian và chi phí tuân thủ thủ tục hành chính, chuyển mạnh từ cơ chế “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, giúp doanh nghiệp giải phóng nguồn lực cho hoạt động kinh doanh cốt lõi. Mở rộng tiếp cận nguồn lực: bảo đảm các địa phương dành quỹ đất công nghiệp phù hợp cho SMEs (ít nhất 20ha hoặc 5% diện tích đất sạch), với ưu đãi giảm 30% tiền thuê đất trong 5 năm. Phát triển các kênh tín dụng chuyên biệt cho SMEs với hình thức bảo đảm linh hoạt, hỗ trợ lãi suất.

Ưu đãi tài chính: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm cho doanh nghiệp mới thành lập, bãi bỏ phí cấp phép kinh doanh, miễn tiền thuê nhà xưởng trong 3 năm đầu. Khuyến khích đổi mới sáng tạo: cho phép doanh nghiệp khấu trừ 200% chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) khi tính thuế, dành tới 20% lợi nhuận trước thuế cho quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý công bằng, minh bạch: giới hạn kiểm tra, thanh tra không quá một lần/năm (trừ trường hợp vi phạm rõ ràng), ưu tiên xử lý vi phạm kinh doanh bằng biện pháp hành chính, dân sự, kinh tế thay vì hình sự hóa.

Những chính sách cụ thể, mạnh mẽ này thể hiện cam kết nhất quán của Nhà nước trong xây dựng một mối quan hệ đối tác thực sự, nơi doanh nghiệp được hỗ trợ tối đa để phát huy nội lực và đóng góp vào sự phát triển chung.

Sự chuyển đổi chiến lược và các chính sách đồng bộ trong Nghị quyết 68-NQ/TW đã và đang tạo động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng. Với tầm nhìn đầy khát vọng đến năm 2030 về số lượng doanh nghiệp và đóng góp GDP, Nghị quyết củng cố niềm tin và nâng cao vị thế môi trường kinh doanh Việt Nam. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần vượt qua các thách thức về thực thi chính sách và thay đổi nhận thức xã hội. Nghị quyết 68-NQ/TW là lời hiệu triệu toàn Đảng, toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp cùng đồng lòng kiến tạo tương lai. Sự chuyển đổi sang mô hình đối tác phát triển mở ra kỷ nguyên mới của sự đồng hành chặt chẽ giữa Nhà nước và doanh nghiệp vì một Việt Nam phồn vinh, phát triển bền vững vào năm 2045. Thời cơ đã đến, đòi hỏi hành động quyết liệt, sáng tạo và dấn thân để biến tiềm năng thành hiện thực rực rỡ, khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

QUỐC VIỆT

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/nghi-quyet-68-nq-tw-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-bai-cuoi-dot-pha-tu-duy-nang-tam-vi-the-kinh-te-tu-nhan-10372582.html