Nghị quyết 71 hết sức ý nghĩa và vô cùng cấp thiết
Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, yêu cầu đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho giáo dục trở nên cấp thiết.

Sinh viên Đại học Cần Thơ trong giờ thực hành. Ảnh: CTU
Theo các chuyên gia giáo dục, Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị (Nghị quyết 71) xác định việc đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho giáo dục là nhiệm vụ đột phá, đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển trong giai đoạn mới.
Trong hệ thống các nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư cho giáo dục, đào tạo; đồng thời quy định tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo phải đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước.

Tiến sĩ Nguyễn Trường Ngọc - Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành.
Đổi mới căn bản và giải pháp
Theo cách nhìn của TS Nguyễn Trường Ngọc – Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành: “Nghị quyết 71 là vô cùng ý nghĩa và cấp thiết. Vì vậy, trong chúng ta phải đổi mới trong tư duy quản lý: Không coi ngân sách nhà nước là nguồn duy nhất mà phải mở rộng khung pháp lý, khuyến khích mạnh mẽ đầu tư từ xã hội, từ doanh nghiệp, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Nhà nước giữ vai trò định hướng, giám sát, tạo cơ chế minh bạch để thu hút nguồn lực.
Qua đó, đổi mới trong phân bổ và sử dụng nguồn lực, cụ thể như: Thay vì dàn trải, đầu tư cần có trọng tâm, trọng điểm, hướng vào các ngành, lĩnh vực then chốt, các cơ sở giáo dục đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, phải ưu tiên đầu tư cho các vùng khó khăn để thu hẹp khoảng cách giáo dục…
Tiếp đến là đổi mới trong cơ chế hỗ trợ người học từ chính sách học phí, học bổng, tín dụng phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, khuyến khích học tập, bảo đảm cơ hội cho mọi công dân được tiếp cận giáo dục”.
Vì vậy, TS Nguyễn Trường Ngọc đưa ra những đề xuất đổi mới cơ chế tài chính – đầu tư cho giáo dục, đào tạo thông qua những một số giải pháp sau:
Trong suốt chiều dài lịch sử, giáo dục và đào tạo luôn được xem là quốc sách hàng đầu, là nền tảng quyết định sự phát triển bền vững của một quốc gia. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần khẳng định: đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp, sự cạnh tranh về nguồn nhân lực chất lượng cao, yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng gay gắt, cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư cho giáo dục – đào tạo của nước ta cần được đổi mới một cách căn bản, toàn diện và bền vững hơn.
"Tinh thần Nghị quyết 71 cùng Luật Giáo dục năm 2019, Luật Đầu tư năm 2020 đã tạo ra khung pháp lý quan trọng, mở đường cho việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để hiện thực hóa các cơ chế, chính sách đó, đưa giáo dục trở thành động lực then chốt trong tiến trình phát triển đất nước", TS Nguyễn Trường Ngọc đặt vấn đề.
Hoàn thiện, đa dạng, tăng cường và đảm bảo
Theo TS Nguyễn Trường Ngọc thì trong những năm qua, Nhà nước đã dành nguồn lực không nhỏ cho giáo dục. Tỉ lệ chi ngân sách hằng năm dành cho giáo dục thường dao động ở mức khoảng 18–20% tổng chi ngân sách nhà nước. Đây là con số khá cao so với nhiều quốc gia có cùng mức thu nhập.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều hạn chế, như: Phân bổ nguồn lực chưa đồng đều, thiếu trọng tâm; Nguồn vốn đầu tư dàn trải, nhiều chương trình, dự án không phát huy hiệu quả hoặc chậm tiến độ, dẫn đến lãng phí. Cụ thể, nhiều địa phương vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất giáo dục còn nghèo nàn, học sinh thiếu phòng học, thiếu trang thiết bị tối thiểu; trong khi ở các thành phố lớn, nhiều trường ngoài công lập lại được đầu tư hiện đại.
TS Nguyễn Trường Ngọc cho rằng cần phải hoàn thiện hành lang pháp lý, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Giáo dục 2019, Luật Đầu tư 2020 và các văn bản liên quan nhằm đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào giáo dục. Triển khai chính sách phải nhất quán, ổn định, có tính dự báo cao để tăng niềm tin của nhà đầu tư.
Bên cạnh ngân sách nhà nước, cần khuyến khích mạnh mẽ hình thức đối tác công – tư (PPP) trong lĩnh vực giáo dục, cho phép doanh nghiệp đầu tư xây dựng trường học, ký túc xá, trung tâm đào tạo nghề… với cơ chế chia sẻ lợi ích hợp lý. Đồng thời, thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo hướng chọn lọc, bảo đảm phù hợp với định hướng phát triển của Việt Nam.

Nghị quyết 71 khi áp dụng trong đổi mới căn bản cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư cho giáo dục, đào tạo là hết sức ý nghĩa và vô cùng cấp thiết.
Qua đó, cần đổi mới phương thức cấp ngân sách cho giáo dục theo hướng “đặt hàng – giao nhiệm vụ”, gắn chi ngân sách với kết quả đầu ra, tránh tình trạng phân bổ cào bằng. Đầu tư phải hướng vào những lĩnh vực then chốt như đào tạo nhân lực công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, y tế… phù hợp xu thế phát triển.
Vì thế, việc sử dụng ngân sách và các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục phải được kiểm toán công khai, minh bạch, tránh thất thoát, lãng phí. Đồng thời, cần phát huy vai trò giám sát của cộng đồng, phụ huynh, sinh viên và các tổ chức xã hội.
Như vậy, chính sách học phí cần tính đến khả năng chi trả của người dân, có cơ chế miễn giảm hợp lý cho đối tượng yếu thế. Đồng thời, mở rộng chương trình tín dụng sinh viên, học bổng khuyến học, khuyến tài, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau vì khó khăn tài chính.
Cuối cùng là chiến lược đầu tư cần gắn với nhu cầu nhân lực của các ngành, các địa phương và xu thế toàn cầu. Đây cũng là tinh thần của Nghị quyết 71 khi đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để hội nhập với thị trường lao động khu vực và quốc tế.
Và để khẳng định vấn đề, TS Nguyễn Trường Ngọc nhấn mạnh: "Đổi mới căn bản cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư cho giáo dục – đào tạo không chỉ là một yêu cầu mang tính chiến lược, mà còn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh và bền vững. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, tạo lập môi trường minh bạch, công bằng để thu hút mọi nguồn lực xã hội cho giáo dục".