Nghĩa tình của xứ chè xanh và cá nục sồ

.

Ai về nhắn với Tư Rô

Chè xanh gởi xuống, nục sồ gởi lên

Bạn thân của tôi anh Trần Đình Tưởng 70 tuổi dân La Gi, Bình Thuận, hai anh em cùng quê cùng trường từ lớp 1 đến ban tú tài thời chế độ cũ biết bao kỷ niệm thời thơ ấu. Mới đây anh lên xứ trà B’Lao thăm tôi mang theo 2 ký cá nục sồ phơi một nắng, để đáp lại tôi dẫn anh đi hái trà xanh và tặng thêm 1 lít mật ong mang về xứ biển làm quà.

Cá nục sồ.

Cá nục sồ.

Ven biển Bình Thuận quê tôi từ Phan Rí đến La Gi, đối với những người cao tuổi gần như mỗi nhà đều có bàn trà trước hiên vừa để độc ẩm vừa tiếp bạn bè theo thông lệ của người Việt mình “khách đến nhà không trà thì rượu”. Nói đến rượu và mồi nhậu dân dã từ ngày xưa cho đến bây giờ đối với dân Bình Thuận món cá nục sồ kho keo cuốn bánh tráng chấm nước cốt và khề khà ly rượu đế vẫn là món sở thích. Thời hiện đại tàu thuyền hàng trăm mã lực đánh bắt xa bờ bằng máy định vị vừa bảo vệ đặc quyền kinh tế vừa khai thác những loại hải sản xa bờ như cá ngừ đại dương, cá hồng, cá mú, cá gáy hay mực tôm... Tuy nhiên loại cá nục gần bờ nhất là nục sồ vẫn là món ăn khoái khẩu truyền thống.

Nục sồ gởi lên

Tháng trước được ngồi lai rai với món nục sồ cuốn bánh tráng tại nhà Nguyễn Bày, thằng bạn thân học cùng ban tú tài thời chế độ cũ. Tư Bày dân biển ở La Gi chính hiệu, khi được hỏi về kỹ thuật của ngư dân Cồn Chà đánh bắt loại cá này, Tư Bày giải thích: “Trước nhất phải hiểu Cồn Chà là gì! Vì thuật ngữ Cồn Chà chỉ dành cho ngư dân đánh cá nục, muốn bắt loại cá này người ta phải làm một đống chà nhân tạo gồm có các cành tre tươi và cành lá dừa tươi buộc chung với nhau đầu chà phải cao hơn mặt nước còn chân chà buộc đá cho chìm và cố định một chỗ giữa biển nơi có nước sâu từ 5 đến 10 m định vị vài ngày, mục đích tạo nên ngôi nhà giữa biển cho cá nục đến ở. Sau đó họ bao vây lưới bắt, chính vì cành lá nhô lên như một cái cồn nên gọi là cồn chà. Cá nục có nhiều loại như nục chuối, nục thuông, nục bông... và nục gai tức là nục sồ, đây là loại ngon nhất, cá nục dài từ 18 đến 35 cm mắt lồi màu đỏ ở độ sâu từ 2 đến 40 m. Bà con đi biển bắt cá nục thường khởi hành vào lúc 1h sáng ra biển tập kết tại khu vực đã cắm chà là 7h sáng, sau đó ăn sáng rồi đánh bắt đến 11h trưa mới quay về bờ. Cái thú của người đi biển là ăn sáng giữa biển xong uống mỗi người 1 ly cối trà xanh có trộn thêm vài lát gừng và một ít mật ong là số 1. Uống một ly trà xanh vừa ngon, ngọt dịu vừa bổ rẻ vừa đã khát chịu được cả ngày, nghe nói trà xanh là một vị thuốc chống đau tim đột quỵ, chống ung thư rất tốt cho tim mạch. Vì vậy dân biển rất mạnh khỏe ít người bị ốm đau, bây giờ có nhiều loại nước uống đắt tiền mang theo ra biển nhưng không khoái khẩu bằng uống trà xanh vừa an toàn vừa yêu thích”.

Nắm bắt sở thích uống trà xanh ngoài biển của dân Cồn Chà, ông Tư Rô một “đầu nậu” cá ở La Gi vào những năm 60 thế kỷ trước thường gởi cá nục lên xứ trà B’Lao rồi mua lại chè xanh bán cho dân đi biển.

Chè xanh gởi xuống.

Chè xanh gởi xuống.

Và chè xanh gởi xuống

Ở xứ B’Lao, nơi vùng nguyên liệu trà lớn nhất miền Nam. Theo tư liệu cũ bằng tiếng Pháp để lại là sau năm 1890 người Pháp phát hiện ra cao nguyên Lâm Viên với khí hậu ôn đới trong lành có thể làm nơi nghỉ dưỡng cho toàn quyền Đông Dương, một trong cách khai thác tiềm năng địa phương là trồng trà trên vùng đất cao trên 1.000 m. Để thử nghiệm cây trồng vùng đất mới, họ cho máy bay thả hạt trà Sam của Ấn Độ trên khắp Tây Nguyên vài năm sau họ mang cây con ra giới thiệu và nhắn gởi với các cư dân bản địa ai mang cây giống như thế này đến địa điểm sẽ được thưởng gạo, cá khô. Trên vùng đất Tây Nguyên chỉ có B’Lao là nơi các cư dân tìm được nhiều nhất. Vì vậy người Pháp quyết định đầu tư trồng đại trà loại cây này trên vùng đất thích hợp, đến năm 1927 mới có sản phẩm xuất khẩu đầu tiên. Trà có 2 loại, loại đã được chế biến gọi là trà còn chưa chế biến gọi là chè, chè xanh là loại nước uống dân dã cho dân lao động toàn miền Nam từ đó. Chè xanh không những là loại thức uống mà còn là vị thuốc rất tốt cho người lao động, người ta thường hái trà xanh từ hàng giậu hiên nhà hay loại trà rừng mang về rửa sơ rồi dùng tay vò nhẹ để kích thích hương vị bỏ thêm vài lát gừng đổ nước sôi ngâm vài phút rồi đổ ra. Sau đó đổ nước sôi lần 2 vào ngâm 1 tiếng đồng hồ khi trà đã ngấm trà chuyển từ màu xanh sang màu vàng nhạt, người uống cho thêm một vài thìa mật ong cho thơm và ngọt dịu mới có kết quả loại thuốc trong thức uống. Chè xanh rất thích hợp cho bà con lao động chân tay nhất là ngư dân đánh bắt xa bờ, họ xem là số một trong các loại nước uống khi ra khơi.

Anh Khởi Ca dân B’Lao, vợ chuyên bán cá nục từ La Gi gởi lên, còn anh là người hái chè xanh gởi về La Gi theo xe hàng tuần. Anh cho biết “Giá 1 kg chè xanh có cả cành lẫn lá là 7.000 đồng, ở La Gi đặt mua mỗi lần cả trăm ký phục vụ cho dân biển nhưng bây giờ dân ở nội thành cũng thường xuyên sử dụng. Họ đặt hàng là chè nguyên chất không có phun thuốc mới mua, nên chạy vắt giò lên cổ ông ơi! Bà xã tôi bán cá nục ở đây được bà con ủng hộ lắm, nghe họ nói cá này dễ ăn giá rẻ mỗi kg từ 40.000 - 50.000 đồng, loại qua 1 nắng 150.000 đồng dễ chế biến từ kho keo hay nấu với măng chua, cá nục nướng giấy bạc nhồi vào bụng lá sả băm nhỏ, kèm theo hành lá, ngũ vị hương ăn ngon lắm nghe nói trị bệnh lưu thông máu ngăn ngừa tim mạch chống viêm khớp nên họ rất ưa chuộng. Dân La Gi thích chè xanh còn dân B’Lao mình thích cá nục sồ, cả hai vùng đất tìm đến nhau, nay mai sáp nhập tỉnh tình nghĩa của xứ trà và xứ cá nục lại thắt chặt hơn ông ạ”! Tôi xin chụp tấm ảnh, anh Ca nằm dài dưới bó trà cười rất tươi và tặng tôi 5 con cá nục tươi kỷ niệm, miệng thì thầm: Ai về nhắn với Tư Rô/ Chè xanh gởi xuống, nục sồ gởi lên. Anh nhìn tôi hỏi “Ông Tư Rô là ông nào, giờ ổng còn sống không ông”!

GHI CHÉP: TRẦN ĐẠI

Nguồn Bình Thuận: https://baobinhthuan.com.vn/nghia-tinh-cua-xu-che-xanh-va-ca-nuc-so-131392.html