Nghịch lý đáng báo động của kinh tế Việt Nam
Doanh nghiệp tư nhân Việt giỏi chống chịu nhưng lại chậm lớn, khó vay vốn dù nền kinh tế 'thừa tiền', là những nghịch lý cho thấy các nguồn lực không thể chuyển hóa thành động lực phát triển kinh tế.
Hai nghịch lý phát triển của Việt Nam
PGS.TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, mới đây nhận định, thực tế phát triển kinh tế của Việt Nam cho thấy những nghịch lý.
Trước hết, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam giỏi chống chịu, sống dai, nhưng chậm lớn, khó trưởng thành.
Một trong những bằng chứng rõ ràng cho thấy khả năng “sống còn” của doanh nghiệp Việt là có thể chịu đựng mức lãi suất cao kéo dài hàng chục năm, đồng nghĩa với việc chi phí vốn rất cao.
Cùng với đó, lực lượng này còn phải chịu nhiều chi phí bôi trơn, thời gian dự án kéo dài hơn rất nhiều so với dự án của nước ngoài.
Theo logic cạnh tranh thị trường, với gánh nặng chi phí như vậy, trình độ còn thấp và thực lực yếu, doanh nghiệp Việt khó có thể tồn tại trong môi trường kinh tế “mở”.
Thế nhưng, trên thực tế, các doanh nghiệp Việt vẫn tồn tại một cách bền bỉ và mạnh mẽ, đóng góp ngày càng lớn vào thành tựu phát triển của đất nước.
“Tuy nhiên, năng lực này lại được tận dụng quá, dẫn đến doanh nghiệp không đủ sức mạnh để lớn lên. Năng lực tốt, nhưng vì sao cứ mãi li ti, mãi không lớn”, ông Thiên trăn trở tại Diễn đàn Kinh tế - xã hội Việt Nam 2023 mới đây.
Bên cạnh nghịch lý phát triển doanh nghiệp, một nghịch cảnh khác là nền kinh tế ‘thừa tiền’ nhưng doanh nghiệp vẫn ‘khát vốn’.
Đến hết tháng 8/2023, giải ngân đầu tư công – trọng tâm của nỗ lực bơm vốn cho nền kinh tế của Chính phủ - được cải thiện rõ rệt so với các năm trước. Tuy nhiên, so với yêu cầu, mức độ tiến triển vẫn chậm, khi mới đạt gần 40% kế hoạch.
Trong khi đó, ở kênh tín dụng, mức tăng trưởng chỉ đạt 5,5%, trong khi mục tiêu cả năm là tăng 14%.
“Nền kinh tế khát vốn nhưng không hấp thụ được vốn. Nhiều doanh nghiệp 'đói vốn' nhưng lâm vào tình thế 'không thể, không dám và không cần' vay vốn, tùy theo hoàn cảnh mỗi doanh nghiệp. Đây thực sự là một nghịch cảnh phát triển”, ông Thiên nhấn mạnh.
Hai nghịch lý trên là bằng chứng cho thấy tình trạng ách tắc lưu thông các nguồn lực là căn nguyên “bất động hóa” các nguồn lực, làm cho chúng không thể chuyển hóa thành “động lực phát triển”, dẫn tới chỗ cơ thể kinh tế bị suy yếu, bị tổn thương và bất ổn.
Khơi thông nguồn lực kinh tế bằng cách nào?
Ông Thiên khẳng định, bảo đảm để các nguồn lực lưu thông thông suốt là yếu tố quyết định hiệu quả của nền kinh tế và của doanh nghiệp.
Theo đó, cần xác lập các điều kiện cần thiết, bao gồm hạn chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin - cho”, “hành chính”; ưu tiên thúc đẩy phát triển các thị trường, đặc biệt là các thị trường “đầu vào”, tạo cơ sở để việc phân phối các nguồn lực diễn ra theo đúng nguyên tắc thị trường (cạnh tranh).
Cùng với đó, cần bảo đảm “tam thông” trong quá trình vận hành hệ thống, bao gồm thông suốt hạ tầng, thông thoáng cơ chế, thông minh vận hành.
Theo ông Thiên, vấn đề mấu chốt của kinh tế Việt Nam hiện nay chính là “thông mạch, thông các nguồn lực” để giải phóng các nguồn lực, tạo động lực mạnh và mới cho tăng trưởng và phát triển.
Để giải quyết nhiệm vụ đó, định hướng ưu tiên cần nhắm vào là phát triển đúng hướng và đúng cách các thị trường; xây dựng một bộ máy quản trị và điều hành phát triển thông minh, biết dựa vào thị trường và có trách nhiệm.
Ba bài học kinh nghiệm về phát huy nội lực
Theo ông Thiên, thực tiễn đổi mới - phát triển kinh tế thị trường của chính Việt Nam cung cấp nhiều bài học đặc sắc về phát huy nội lực nhờ biết cách khơi thông các mạch nguồn và tạo kết nối.
Thứ nhất là bài học về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Quá trình đổi mới thực sự diễn ra nhờ áp dụng một công thức phát triển đơn giản hiếm thấy, là từ bỏ việc cấm đoán kinh tế tư nhân và các thị trường, chính thức thừa nhận và cho phép vận hành nền kinh tế nhiều thành phần, và các thị trường đầu vào được hoạt động công khai.
Nền kinh tế bao cấp phi thị trường đang khủng hoảng nghiêm trọng, đứng trước nguy cơ sụp đổ, ngay lập tức hồi sinh và trỗi dậy một cách thần kỳ.
Cần bảo đảm “tam thông” trong quá trình vận hành hệ thống, bao gồm thông suốt hạ tầng, thông thoáng cơ chế, thông minh vận hành"
PGS. TS. Trần Đình Thiên
Bài học thành công ở đây là khai thông các thể chế thị trường, khai thông càng triệt để, thành tích phát triển càng lớn. Mấu chốt chính là thể chế, cách kênh khơi thông nguồn lực (các thị trường) và cơ chế phân bổ phù hợp (cạnh tranh thị trường).
Bài học thứ hai là về bùng nổ phát triển năng lượng tái tạo.
Ông Thiên đánh giá, việc duy trì giá điện thấp theo kiểu bao cấp là nguyên nhân chính gây căng thẳng cung – cầu, thậm chí xung đột trong đời sống. Khuyến khích tiêu dùng điện giá rẻ đồng nghĩa với khuyến khích nền sản xuất công nghệ thấp, trong khi không khuyến khích đầu tư phát triển nguồn điện.
Sự căng thẳng này chỉ được giải quyết khi tiềm năng điện gió – điện mặt trời được phát huy, nhờ Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế giá điện năng lượng tái tạo có tính khuyến khích cao.
Nền kinh tế, về nguyên tắc, thoát khỏi tình trạng khan hiếm điện. Logic giá điện thị trường được áp dụng, trong bối cảnh thế giới chuyển sang thời đại năng lượng mới chứa đựng xu thế đưa Việt Nam thành một quốc gia có vị thế năng lượng toàn cầu.
Bài học thứ ba là thiên lệch trong phát triển các thị trường tài chính – tiền tệ.
Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định, sự phát triển thiên lệch các thị trường tài chính – ngân hàng là nguyên nhân cơ bản gây ra những bất ổn và rủi ro trong nền kinh tế.
Thị trường tín dụng đang phải đóng vai là kênh cung cấp vốn chính, cả vốn ngắn hạn lẫn dài hạn, cho nền kinh tế. Trong khi đó, những thị trường và kênh có chức năng chính là cung cấp vốn dài hạn, như thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, kênh đầu tư công, chưa được quan tâm phát triển đúng tầm và đúng cách, dẫn tới chỗ phát triển chưa đến tầm và thiếu đồng bộ.
Đây là một trong những căn nguyên chính của tình trạng tắc nghẽn cung – cầu về vốn, dễ tạo sóng đầu cơ và gây nhiều rủi ro hệ thống.