Nghịch lý lương nhà giáo: Cùng trình độ, thu nhập vẫn thấp hơn ngành khác
Theo Bộ GD&ĐT, dù nhiệm vụ và yêu cầu đào tạo tương đương, mức lương nhà giáo lại xếp thấp hơn viên chức các ngành khác trong hệ thống hành chính sự nghiệp.
Bộ GD&ĐT vừa công bố dự thảo Nghị định quy định chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với nhà giáo. Theo dự thảo, tất cả nhà giáo đều được hưởng hệ số lương đặc thù.
Lương nhà giáo xếp thấp hơn viên chức ngành khác
Điều 23 Luật Nhà giáo quy định “lương nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”.
Theo quy định hiện hành, lương nhà giáo hiện chưa được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp. Thậm chí, theo Bộ GD&ĐT, đa số nhà giáo đang xếp ở thang lương thấp hơn.

Theo Bộ GD&ĐT, lương của đa số nhà giáo xếp thấp hơn viên chức các ngành khác. Ảnh minh họa: TT
Lương nhà giáo thực hiện theo quy định của Chính phủ tại Nghị định 204/2004. Theo đó, nhà giáo và các viên chức nói chung hưởng mức lương khởi điểm tương ứng với yêu cầu về trình độ đào tạo (loại B đối với trình độ trung cấp, loại A0 đối với cao đẳng, loại A1, A2, A3 đối với từ trình độ đại học trở lên).
Bảng thang lương sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao, tương ứng từ thang 1 đến thang 10 là: C1, C2, C3, B, A0, A1, A2.2, A2.1, A3.2, A3.1.
Trong 10 thang lương này, hiện có 3 chức danh nhà giáo được áp dụng lương của viên chức loại A3, gồm: Giảng viên đại học cao cấp, giảng viên giáo dục nghề nghiệp cao cấp, và giáo viên giáo dục nghề nghiệp cao cấp (chiếm khoảng 1,17% so với tổng số nhà giáo).
Trong khi tỉ lệ này ở các ngành, lĩnh vực khác khoảng 10% so với tổng số viên chức của ngành, lĩnh vực đó.
Số chức danh nhà giáo cao cấp còn lại (hạng I ở cấp mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên, dự bị đại học) chiếm khoảng 8,83% so với tổng số nhà giáo, chỉ được xếp lương của viên chức loại A2 (tương đương chức danh viên chức chính của các ngành, lĩnh vực khác).
Trong khi đó, theo quy định về nhiệm vụ của chức danh nghề nghiệp hiện nay, nhiệm vụ của viên chức cao cấp nói chung giống với nhiệm vụ của nhà giáo cao cấp (hạng I).
Khi rà soát, so sánh thang lương áp dụng, Bộ GD&ĐT nhận thấy lương của hầu hết nhà giáo (trừ giảng viên cao đẳng, đại học, giáo viên giáo dục nghề nghiệp) đang xếp thấp hơn viên chức các ngành khác như y tế (bác sĩ, dược sĩ), xây dựng (kiến trúc sư, thẩm kế viên), văn hóa - thể thao (đạo diễn, diễn viên, họa sĩ, huấn luyện viên), khoa học công nghệ (nghiên cứu viên, kỹ sư).
Viên chức các ngành khác đều được phân loại thành 3-4 hạng (từ hạng IV đến hạng I), hưởng lương từ A1-A2.1-A3.1 (tương ứng với thang lương 6 - 8 - 10).
Trong đó, trừ viên chức y tế và viên chức khoa học, công nghệ yêu cầu trình độ tiến sĩ hoặc thạc sĩ với hạng I, các ngành khác chỉ yêu cầu trình độ đào tạo chung của viên chức từ hạng III đến hạng I là đại học.
Trừ giảng viên đại học, cao đẳng và giáo viên giáo dục nghề nghiệp, nhà giáo cũng được phân loại thành 3-4 hạng (từ hạng IV đến hạng I), hầu hết đang hưởng lương từ A0-A1-A2.2-A2.1 (tương ứng với thang lương 5 - 6 - 7 - 8) là giáo viên mầm non, phổ thông, dự bị đại học, giáo dục thường xuyên (chiếm tỉ lệ khoảng 88% so với tổng số nhà giáo).
Thang lương áp dụng với giáo viên mầm non đang thấp nhất
Thang lương áp dụng đối với giáo viên mầm non hiện đang là A0 (2,1) - A1 (2,34) - A2.2 (4,0). Theo 10 thang lương của viên chức, lương giáo viên mầm non đang ở thang 5 - 6 - 7 (các viên chức khác chủ yếu hưởng thang lương 6 - 8 - 10).
Từ đó có thể thấy, thang lương áp dụng với giáo viên mầm non hiện thấp nhất trong số các chức danh nhà giáo và thấp hơn tất cả viên chức các ngành, lĩnh vực khác.
Trong khi môi trường làm việc, tính chất hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non, theo Bộ GD&ĐT, được thực tế chứng minh là nặng nhọc.
Theo báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu hiện trạng điều kiện lao động của giáo viên bậc học mầm non làm cơ sở đề xuất xếp loại danh mục nghề nặng nhọc độc hại, nguy hiểm” do Viện Khoa học an toàn và vệ sinh lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nghiên cứu, điểm đánh giá về điều kiện lao động của giáo viên mầm non là 3,69, nằm trong khoảng điểm từ 3,37-4,56, tương ứng với điều kiện lao động loại IV.
Công việc có điều kiện lao động loại IV là nghề, công việc nặng nhọc. Đây cũng là căn cứ để tuổi nghỉ hưu của giáo viên mầm non được giảm 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu bình thường và đã được quy định tại Điều 26 Luật Nhà giáo.
"Một trong số nguyên tắc quan trọng khi thực hiện chế độ tiền lương là bảo đảm tương quan giữa các ngành, nghề và giữa các loại cán bộ, công chức, viên chức, theo quy định tại Điều 3 Nghị định 204/2004", Bộ GD&ĐT nêu.
Tuy nhiên, theo Bộ GD&ĐT, từ những phân tích trên, việc xếp lương nhà giáo hiện không bảo đảm tương quan giữa các ngành, nghề, mặc dù có cùng yêu cầu trình độ đào tạo và nhà giáo được xác định là có vị thế quan trọng trong xã hội.
Do đó, để triển khai Luật Nhà giáo có hiệu lực ngày 1-1-2026, Bộ GD&ĐT đề xuất tất cả nhà giáo đều được hưởng hệ số lương đặc thù.
Trong đó, giáo viên mầm non hưởng hệ số lương đặc thù mức 1,25 so với hệ số lương hiện hưởng; các chức danh nhà giáo khác được hưởng hệ số lương đặc thù mức 1,15 so với hệ số lương hiện hưởng.
Đối với nhà giáo giảng dạy tại trường, lớp dành cho người khuyết tật, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập, trường phổ thông nội trú vùng biên giới được cộng thêm 0,05 so với mức quy định.
Hệ số lương đặc thù được tính với mức lương và không dùng để tính mức phụ cấp với công thức tính mức lương như sau:

Cũng theo Bộ GD&ĐT, việc xếp lương nhà giáo chỉ có thể giải quyết căn cơ khi Chính phủ ban hành chính sách tiền lương mới và thực hiện việc sắp xếp lại thang lương của nhà giáo cùng các viên chức ngành khác.
Tuy nhiên, trong bối cảnh Chính phủ chưa ban hành chính sách tiền lương mới thì việc ban hành quy định hệ số lương đặc thù (như tại dự thảo Nghị định quy định chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với nhà giáo mà Bộ đang lấy ý kiến) là cần thiết.
"Hệ số lương đặc thù không giúp lương nhà giáo được xếp cao nhất, nhưng sẽ giúp lương nhà giáo được xếp cao hơn so với viên chức có cùng thang lương áp dụng.
Đội ngũ nhà giáo cả nước trông mong vào sự đồng thuận của các cấp có thẩm quyền đối với quy định hệ số lương đặc thù để từng bước giải quyết các bất cập của hệ thống thang bảng lương hiện nay", Bộ GD&ĐT nêu rõ.
Thu nhập giáo viên không đủ sống
Tính đến tháng 4-2025, cả nước còn thiếu 102.097 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông trong biên chế so với định mức quy định của Bộ GD&ĐT. Trong đó, mầm non thiếu 30.057, tiểu học thiếu 22.255, THCS thiếu 30.702, THPT thiếu 19.083.
Từ tháng 8-2020 đến tháng 8-2023, cả nước có trên 40.000 giáo viên nghỉ việc, chuyển việc; giáo viên nghỉ việc độ tuổi dưới 35 chiếm tới 60% tổng số giáo viên nghỉ việc.
Từ tháng 8-2023 đến tháng 4-2024 có 7.215 giáo viên nghỉ việc, trong đó số giáo viên bỏ nghề ở bậc mầm non chiếm tỉ lệ cao (khoảng 1.600 giáo viên, chiếm khoảng 22%) và giảm dần theo các cấp học từ thấp đến cao.
Theo Bộ GD&ĐT, nhà giáo mới vào nghề trong 5 năm công tác đầu chỉ hưởng lương theo hệ số lương và phụ cấp ưu đãi, chưa có phụ cấp thâm niên nên tổng thu nhập còn thấp, do đó có khoảng cách chênh lệch xa so với giáo viên lâu năm mặc dù các nhiệm vụ cơ bản như nhau.
Cụ thể, mức lương thấp nhất của giáo viên mầm non khoảng 6,6 triệu đồng, giáo viên tiểu học khoảng 7,3 triệu đồng, giáo viên THCS, THPT, dự bị đại học khoảng 7,1 triệu đồng - cách quá xa so mức lương cao nhất, tương ứng lần lượt là 20,6 triệu, 24,6 triệu, 28,5 triệu và 30,5 triệu; thấp hơn mức lương trung bình 7,7 triệu đồng của người lao động năm 2024.
"Thu nhập chưa đảm bảo đủ sống cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến tình trạng giáo viên nghỉ việc có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, nhất là đối với đội ngũ giáo viên trẻ có độ tuổi dưới 35", Bộ GD&ĐT nhận định.











