Nghịch lý ngân hàng 'tồn kho tiền', doanh nghiệp 'khát vốn'
Trong khi ngân hàng 'tồn kho tiền' thì các doanh nghiệp bất động sản lại khát vốn. Vấn đề nằm ở khâu 'cho vay' hay ở đầu ra của nền kinh tế?
Các doanh nghiệp bất động sản (BĐS) đang phải chống chọi với những khó khăn, thách thức lớn, thậm chí còn khốc liệt hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng vào những năm 2010-2013. Theo Tổng cục Thống kê, lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 10 cả nước có 1.067 doanh nghiệp BĐS giải thể, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Hầu hết các doanh nghiệp BĐS đã phải thay đổi phương án kinh doanh, dừng, đình hoãn hoạt động đầu tư, thi công dự án, dừng IPO, thu hẹp quy mô sản xuất, thậm chí phải chuyển nhượng bớt dự án, cắt giảm nhân lực từ 70-80% và nỗ lực hết sức để tái cấu trúc, tìm cách sống sót và phục hồi. Tuy nhiên, trong bối cảnh thanh khoản sụt giảm mạnh, khó khăn của các doanh nghiệp BĐS càng trở nên chồng chất hơn, đặc biệt là vấn đề tài chính.
Ngân hàng tồn kho... tiền
Để “cứu” thị trường BĐS, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành các chính sách tiền tệ. Theo đó, Chính phủ đã đưa ra chủ trương chuyển chính sách tiền tệ từ “chặt chẽ” (trước tháng 10/2022) sang “chắc chắn” (từ tháng 10/2022) và tiếp tục chuyển sang “linh hoạt, nới lỏng hơn” (từ tháng 6/2023). Bên cạnh đó, từ đầu năm đến nay NHNN liên tiếp 4 lần giảm lãi suất điều hành. Lãi suất huy động, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại cũng đã giảm xuống để phù hợp hơn với nhu cầu vay vốn của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh mới.
Trên thực tế, doanh nghiệp trong lĩnh vực BĐS và nhiều lĩnh vực khác cũng đang rất khó khăn trong việc tìm kiếm dòng vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, và cho biết không tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế hiện nay theo Ngân hàng Nhà nước là đang rất khó khăn, bởi doanh nghiệp không hấp thụ được vốn, thậm chí “không muốn vay”. Mục tiêu nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, doanh nghiệp thời gian qua đã tốt dần lên, tuy nhiên vẫn chưa được như mong muốn, kỳ vọng.
Ngành ngân hàng cho biết công tác điều hành chính sách tiền tệ đang hết sức khó khăn, hệ thống ngân hàng đang phải “chữa bệnh thừa tiền”. Cũng giống như các doanh nghiệp bị tồn kho hàng hóa, thì các ngân hàng thương mại cũng đang tồn kho... tiền.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn này, ngành ngân hàng cần tìm kiếm các dự án khả thi, an toàn. Bởi, huy động của ngân hàng thường 12-24-36 tháng; cho vay BĐS thường có kỳ hạn từ 10-20 năm. Huy động 3 năm mà cho vay đến 10 năm hoặc 20 năm là một rủi ro rất lớn. Do vậy, tỷ lệ cho vay đối với các dự án bất động sản dài hạn bằng nguồn vốn huy động từ tiền gửi vào hệ thống ngân hàng cũng cần phải được khống chế vì lý do an toàn hệ thống.
Bên cạnh đó, trên thực tế, tín dụng BĐS tập trung vào mục đích tiêu dùng/tự sử dụng chiếm 64% và dư nợ đối với hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng 36% dư nợ tín dụng lĩnh vực BĐS.
Tháo nút thắt cho doanh nghiệp BĐS
Theo Chuyên gia kinh tế, TS Võ Trí Thành, nền kinh tế Việt Nam phần lớn vốn từ ngân hàng, mối quan hệ giữa các ngân hàng thương mại với doanh nghiệp là cộng sinh, cần chấp nhận rủi ro cùng nhau. Đồng thời, trong các lĩnh vực cho vay, pháp lý, chủ trương phải thông, điều kiện phải đủ thì ngân hàng mới dám xuống tiền. Ngân hàng có thể bớt ít lợi nhuận, có những gói cho vay với lãi suất thấp hơn.
“Ngân hàng làm sao cân đối, chấp nhận rủi ro nhưng chấp nhận ở mức nào họ có quy chế rất rõ, doanh nghiệp cũng phải đặt ra quy chế đó để thực chất là cộng sinh. Thực tế hiện nay ngân hàng đã hạ chuẩn, cơ cấu lại nợ, giảm điều kiện cho vay đối với doanh nghiệp, khoanh nhóm nợ, không chuyển nhóm nợ”, ông Thành đánh giá.
Theo Viện Nghiên cứu BĐS Việt Nam (VIRES), trong bối cảnh hiện nay, thay vì dựa vào đòn bẩy tài chính ngân hàng như thường lệ, nhiều doanh nghiệp chủ động chọn giải pháp tiết giảm chi phí, thu gọn quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này dẫn đến tình trạng các tổ chức tín dụng muốn cho vay nhưng không cho vay được. Dù giải pháp giảm lãi suất chưa mang lại hiệu quả để kéo nền kinh tế đi lên như kỳ vọng nhưng việc có tiếp tục giảm lãi suất nữa hay không cũng là vấn đề quan trọng.
Mặt khác, gia tăng tín dụng chỉ bằng biện pháp giảm lãi suất mà không song hành với các biện pháp hồi phục, củng cố và phát triển tổng cầu, đồng thời tìm mọi cách để đẩy vốn ra thị trường sẽ khiến nguồn vốn tín dụng gia tăng và được chuyển tải đến các dự án sản xuất kinh doanh thiếu bền vững về tài chính, không chắc chắn về phương án trả nợ.
Do thiếu các dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi, có khả năng hoàn trả nợ vay, các nỗ lực đẩy mạnh vốn ra thị trường thậm chí có thể dẫn đến tình trạng vốn tín dụng được chuyển tới các lĩnh vực có tính đầu cơ, từ đó khiến một số thị trường tăng giá bong bóng trở lại.
Từ những nhận định và phân tích trên, VIRES đã đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm hóa giải nghịch lý nền kinh tế khát vốn nhưng khó hấp thụ vốn: Thứ nhất là tăng cường mở rộng tài khóa, kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ; Mở rộng tài khóa bằng cách tiếp tục giảm thuế, phí, đẩy mạnh đầu tư công, kích cầu tiêu dùng nội địa. Thứ hai là cải cách môi trường đầu tư kinh doanh. Thứ ba là giải quyết những vấn đề then chốt của hệ thống tín dụng, đặc biệt là “sở hữu chéo”.