Người lao động đóng bảo hiểm xã hội được hưởng quyền lợi ra sao nếu mắc COVID-19
'Cả nước vẫn đang ghi nhận hàng chục nghìn ca COVID-19 mới mỗi ngày, trong đó có số lượng lớn là người lao động (NLĐ) có tham gia BHXH. Trong trường hợp này, NLĐ sẽ được hưởng đầy đủ quyền lợi về BHXH nếu đảm bảo đủ điều kiện và hồ sơ theo quy định', BHXH Việt Nam cho biết.
Ngày 18/2, BHXH Việt Nam chính thức thông tin về các chế độ BHXH người lao động tham gia BHXH mắc COVID-19 được hưởng.
Cụ thể, về chế độ ốm đau, theo quy định tại Điều 25 Luật BHXH năm 2014, NLĐ bị ốm đau hoặc phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau mà có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền sẽ được hưởng chế độ ốm đau. Chế độ này hiện được áp dụng để chi trả cho NLĐ bị mắc COVID-19 và nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị mắc COVID-19.
Về hồ sơ hưởng, đối với NLĐ là F0 điều trị nội trú cần giấy ra viện. Đối với NLĐ là F0 điều trị ngoại trú cần giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH hoặc Giấy ra viện có chỉ định của y, bác sỹ điều trị cho nghỉ thêm sau thời gian điều trị nội trú.
Về thời gian hưởng, tại Thông tư số 56/2017/TT-BYT quy định, mỗi lần khám, người bệnh được cấp một Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH tối đa là 30 ngày. Trường hợp F0 cần nghỉ dài hơn 30 ngày thì khi hết hoặc sắp hết thời hạn nghỉ ghi trên Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH đã được cấp, người F0 phải tiến hành tái khám để người hành nghề xem xét quyết định.
Về mức hưởng: NLĐ sẽ được hưởng 75% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
Để hưởng chế độ ốm đau sau khi điều trị khỏi COVID-19, NLĐ cần nộp lại cho đơn vị sử dụng lao động bản sao Giấy ra viện (đối với trường hợp điều trị nội trú); Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH hoặc Giấy ra viện có chỉ định của y, bác sỹ điều trị cho nghỉ thêm sau thời gian điều trị (đối với trường hợp điều trị ngoại trú) trong vòng 45 ngày kể từ ngày trở lại làm việc để đơn vị hoàn thiện hồ sơ và gửi cơ quan BHXH.
Cơ quan BHXH sẽ giải quyết chế độ cho NLĐ trong tối đa 6 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định. NLĐ có thể nhận tiền qua một trong các hình thức sau: Thông qua tài khoản cá nhân hoặc thông qua đơn vị sử dụng lao động.
Về chế độ dưỡng sức phục hồi sức khỏe sau ốm đau, BHXH Việt Nam cho biết, sau khi điều trị các bệnh khác hoặc COVID-19, nếu NLĐ đã nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau đủ thời gian trong một năm theo quy định mà trong vòng 30 ngày trở lại làm việc, sức khỏe của NLĐ vẫn chưa hồi phục thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe.
Thời gian nghỉ hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe trong trường hợp này sẽ do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định nhưng tối đa không quá 10 ngày đối với NLĐ sức khỏe chưa phục hồi sau thời gian ốm đau do mắc bệnh cần chữa trị dài ngày; Tối đa 07 ngày đối với NLĐ sức khỏe chưa phục hồi sau thời gian ốm đau do phải phẫu thuật; Bằng 05 ngày đối với các trường hợp khác.
Mức tiền được hưởng trong thời gian nghỉ dưỡng sức là 30% mức lương cơ sở, tức là 447.000 đồng/ngày.
Trước diễn biến phức tạp của đại dịch COVID 19, số lượng người mắc COVID-19 điều trị tại nhà gia tăng mà Thông tư số 56/2017/TT-BYT nêu trên chưa có quy định về việc cấp hồ sơ, giấy tờ làm căn cứ hưởng BHXH đối với các F0 điều trị tại nhà, tại các cơ sở thu dung điều trị, cơ sở 3 tại chỗ… cũng như NLĐ phải nghỉ việc để chăm sóc con nhỏ dưới 7 tuổi là F0 điều trị tại nhà.
BHXH Việt Nam cho biết đã kịp thời có các Công văn: số 1638/BHXH-CSXH ngày 11/6/2021; số 2321/BHXH-CSXH ngày 03/8/2021; số 2793/BHXH-CSXH ngày 06/9/2021, số 2989/BHXH-CSXH ngày 24/9/2021 và số 10/BHXH-CSXH ngày 05/01/2022 báo cáo, đề xuất với Bộ Y tế về thực trạng này.
Mới đây, ngày 14/01/2022, Bộ Y tế đã có Công văn số 238/BYT-KCB tại điểm 2, điểm 3 nêu: “Hiện nay các Văn bản luật chưa có quy định dùng giấy tờ khác để thay thế giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH. Đồng thời chưa có quy định chấp nhận những giấy tờ cấp chưa đúng quy định của pháp luật vẫn có giá trị để cơ quan BHXH làm cơ sở quyết hưởng chế độ BHXH đối với NLĐ. Bộ Y tế đang nghiên cứu, đề xuất các nội dung chưa được quy định trong các văn bản Luật để báo cáo, đề xuất với Chính phủ hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết để giải quyết các vấn đề nêu trên”.